NHỮNG NẺO ĐƯỜNG QUÊ HƯƠNG - Mầu Của Hội-An









Nói về Hội-An, nếu ai đã từng một lần ghé đến, chắc cũng đều phải thừa nhận rằng Hội-An ngoài chuyện từng là một thành phố cổ đã có trên 300 năm, bến cảng của một thời sầm uất, thịnh vượng và tấp nập thương thuyền từ các nơi ghé vào buôn bán, trao đổi hàng hóa. Hội-An còn có một sắc thái rất rõ rệt, đó là một mầu vàng tượng trưng cho mầu của hoàng gia, của cổ kính - tràn ngập trên nhiều con đường chính của khu phố cổ này. Tôi đã từng ghé đến Hội-An đã 5, 6 lần, nhưng chưa cảm thấy chán, mà vẫn còn những thích thú muốn quay trở lại đó - ít nhất là một lần - mỗi khi trở về thăm quê hương.

Nhiều lúc tôi thầm tự hỏi, chẳng biết tâm hồn mình cũng từng già nua, xưa tựa như mầu của Hội-An, cho nên dễ cảm thông và bị thu hút, hằng mong được quay trở về chốn này. Có lúc, tôi tưởng tượng rằng mình sẽ về hưu sống ở đây - giống như người đầu bếp nổi tiếng thế giới Anthony Bourdain - cũng tính  mua một miếng đất, đủ cho một vườn rau mình tự trồng, vài bụi hoa mọc lác đác, loanh quanh đây đó, rồi có chỗ cho vài con gà thả rong nuôi để lấy trứng, để thỉnh thoảng có thêm dĩa gỏi gà...nhưng không hoàn toàn như dự tính của Anthony Bourdain , tôi chỉ cần một căn nhà cỡ cấp IV, chẳng cần xa hoa mà chỉ đủ căn bản tiện nghi .

Ước vọng là một chuyện, thời thế là một chuyện khác. Ít ra, bây giờ khi vẫn còn "phong độ", thực hiện được những chuyến bay đi bay về Việt-Nam, ngoài chuyện được thưởng thức những món ăn thuần túy của dân xứ Quảng (Nam), tôi còn có cái thú đi dạo để săn ảnh, những tấm hình để được xem đi xem lại mai sau - khi không còn sức để ngồi trong chiếc "ghế trên mây" gần 10 tiếng đồng hồ - và nhất là nó có thể cho mình gom góp để in thành sách với hình ảnh của những nơi từng ghé qua, cuối cùng là gợi hứng viết lên một truyện ngắn, để trở thành một bài thơ. 

Chẳng hạn như bài thơ "THUYỀN ĐÃ SANG SÔNG", nẩy sinh bởi một lần hai vợ chồng đang đi tìm quán ăn tối dọc bên bờ sông Thu Bồn, thấy nhóm người đang nhộn nhịp dàn dựng, sắp xếp để chụp ảnh cho một cô dâu - khi người chú rể kiên nhẫn ngồi chờ cho cô vợ mới cuới chụp vài tấm hình để  kỷ niệm - hay để đời - nhân tiện họ đang hưởng tuần trăng mật ở Hội-An. 

Nhìn khung cảnh, mầu sắc - nhất là sẵn có người mẫu "chùa", không phải tốn tiền, tôi bèn ghé vào , đứng cách xa và chụp liên tiếp vài tấm. Khi mở Photoshop xem, tôi thấy quả là "hay không bằng hên", tôi lựa đuợc một tấm mình ưng ý nhất, phóng lớn ra xem. Trong lúc ngắm hình ảnh, tôi tưởng tượng rằng cô dâu này từng là người yêu cũ của mình, nhưng vì duyên không trọn, nợ không thành cho nên nàng đã theo chồng sang sông, để lại người tình sững sờ, cô độc đứng bên bờ, lặng nhìn mà tưởng nhớ lại những lời thề xưa, mộng ước cũ :
 



Thuyền đã sang sông về bến mới
ta còn đứng ngẩn tiếc thương chi
thề xưa ai hứa rằng sẽ đợi
khi tóc còn xanh tuổi dậy thì



Tóc xanh môi thắm nay còn đâu
bọt bèo trôi dạt nhánh sông sâu
ngày xưa thôi bỗng như gió thoảng
người xưa thay áo đã qua cầu



Ai chọn áo mang mầu đỏ thẫm
tựa máu trong tim tan nát hồn
son phấn cho người thành lạ lẫm
tình xưa thôi cũng đành lòng chôn



Đêm nay trăng về trên phố cổ
trăng mật cho người vui với chồng
riêng ta đếm từng chiếc lá đổ
chạnh hắt hiu lòng mỗi chiều đông.





Nhưng không phải tất cả những hình ảnh đã đều có thể khơi động lên được những bài thơ lãng mạn như thế. Trong tôi còn có cái máu ngông - nay thưòng gọi là máu "tửng" - như trường hợp trong một buổi sáng sớm, khi nắng ban mai chan hòa, rạng chiếu trên khu phố cổ, hai vợ chồng đi dạo bên bờ sông Thu Bồn, tôi bảo "người mẫu" bất đắc dĩ của mình ngồi ở chiếc băng ghế, làm dáng vẻ như đã từng chờ đợi ai mòn mỏi, chụp một tấm rồi làm bài thơ ngông vừa chợt thoáng qua trong đầu.

 

Bài thơ tự cười - chế diễu mình(hay người) cũng đều muốn nói lên cái hạnh phúc của nửa cuộc đời sau, lúc con cái như cánh chim đã lìa tổ ấm, là khi hai vợ chồng đi đâu cũng có nhau, mặc dù có nhiều lúc - ai cũng tưởng số mình như bị "giời đầy" bởi người chồng(vợ) bên cạnh. Mầu thời gian của hạnh phúc, có lẽ cũng tương tự như mầu sắc của phố cổ Hội-An. Một thời hạnh phúc cực thịnh đã trải qua, và nếu biết duy trì và gìn giữ, nó sẽ là những bảo vật tinh thần cho thế hệ kế tiếp.

Ngoài chuyện thích ghé thăm Hội-An, tôi  không biết sau này khi con cháu của mình xem lại hình ảnh của  cha mẹ,  ông bà của nó cũng đã từng một thời "vàng son", du lịch bên nhau đây đó, sẽ  tạo lên được niềm tin trong lòng bọn chúng hay chăng?, để biết nhường nhịn và nương tựa lẫn nhau đi hết quãng đời còn lại của con người. Tôi hy vọng rằng sẽ được như thế.

Những lần ghé đến Hội-An, tôi thường hay tự lái xe gắn máy từ Đà Nẵng vào, vì khoảng cách chỉ chừng 30km về hướng nam, không quá một tiếng đi theo kiểu tàn tàn, nhàn hạ; nhưng máu “ngựa bà” trong tôi hình như vẫn còn lưu lại từ thưở còn thanh-niên, và con đường Trường Sa chạy dọc theo bãi biển trơn tru, rộng rãi cho nên tôi chỉ mất chừng 40 - 45 phút là đã đến nơi. Qua những chỗ nghỉ dưỡng (resort) xa hoa, tráng lệ dành cho ngoại quốc, khách xộp mà một đêm giá thuê phòng có thể tốn chừng từ $500 ngàn đồng ($25 USD) cho đến một , hai triệu (tùy theo mùa và dịch vụ đòi hỏi), tôi cũng thấy những cảnh nghèo phảng phất quanh khu phố cổ, trên nét mặt của những người già nua mà vẫn phải làm lụng, buôn bán để kiếm sống.


Hai "thiếu nữ" của một thời, nay vẫn còn phải chèo thuyền
đưa khách để kiếm thêm chút cơm, cháo.




Đấy cũng là một trong những sắc mầu của Hội-An, và tấm hình “nguời mẫu” (bên trái) đứng trước một con hẻm - để người đọc có thể hình dung ra chiều cao - cảnh lụt vào năm 2009; phía trên tấm bảng quảng cáo "BÁNH Ít, lá gai, bánh Susuê", đó là mức lũ lụt (mầu xanh), đánh dấu khi nước sông Thu Bồn đã từng dâng cao. Bức tường mầu rêu phong gợi lại hình ảnh của nhũng ngày mưa lũ, bao người dân xứ Quảng phải hứng chịu cái lạnh lẽo và đói khát, kéo dài cả tháng trường, nhưng rồi theo thời gian cũng phải trôi qua.

Mầu thời gian sau đó là những buổi tối hàng quán đông khách, dân tứ xứ ghé thăm và đóng góp vào nền kinh tế và cuộc sống của người dân nơi đây. Tôi vẫn thường ngụy biện, không thích du lịch nơi nào khác ngoài quê hương mình vì nhiều lý do. Thứ nhất là vấn đề thực tế, cũng một đồng bỏ ra tiêu sài - như bên Âu Châu chẳng hạn - có ý nghĩa sâu đậm ở quê hương hơn nơi nào khác. Thứ hai, thời còn trẻ và còn ở trong nước, tôi cũng giống như tất cả mọi người, ước mong ít nhất là một lần trong đời sẽ ghé thăm nào là Ba Lê, hay Luân Đôn, Thụy Sĩ...nhưng sau hơn 25 năm bận rộn với sự nghiệp lẫn gia đình, lần đầu tiên được du lịch ra khỏi Mỹ, tiếng gọi của non nước, của quê hương vẫn mạnh mẽ hơn hết. Sau chuyến về thăm Việt-Nam lần đầu vào mùa hè năm 1999, tôi biết rằng mình vẫn còn nặng nợ ,  dính liền với cái “cuống ruột" nghìn dặm này; và bây giờ, tình hình xã hội đầy bất ổn bên Âu Châu đã khiến tôi mất đi cái hứng thú, đam mê để làm một chuyến du lịch.

Nhất là tôi đã có thể du lịch "ảo" sang bất cứ nơi nào bên đó qua trang mạng YouTube. Ai đã từng đi nghỉ hè - du lịch đến đâu - cũng đều muốn khoe hoặc chia sẻ hình ảnh & kỷ niệm của mình trên đó. Chẳng nói chi đâu xa, ông cậu của tôi bên Việt-Nam, được con cái sắm cho cái TV thông minh to đùng 30", nhờ xem YouTube mà cậu tôi biết khá rành rõi về văn hóa, hình ảnh cuộc sống ở bên Mỹ, chả cần phải tốn vé máy bay, ngồi ê cả mông gần nguyên ngày mới tới được tận nơi.



cũng con đường Bạch Đằng để tản bộ, biến thành thủy lộ trong cơn lụt tháng 04/2016

Suy ngẫm về một góc cạnh khác, đi nước ngoài chỉ mang lại những giây phút "uh, ah, whoa…!" trong ngạc nhiên lẫn thích thú vì phong cảnh, và những đền đài, cổ tích  khác lạ. Khi về đến nhà tôi nghĩ chắc mình chẳng còn lưu lại được thêm điều gì khác hơn là hình ảnh của những ngày đuợc tiêu sài, thư giãn và có chuyện để khoe với mọi người là mình đã từng đi thăm chỗ này, ghé đến chỗ nổi tiếng nọ mà người Mỹ có câu nói rất gọn "been there, đone that" - đến rồi, làm rồi.  

Quan trọng hơn hết, không biết thời gian còn lại của đời mình sẽ là bao lâu - ngoại trừ trong khoảng khắc bốc đồng, hứng thú nào đó thì chẳng cần phải nói -  cho dù nếu ai đó sẵn sàng mua vé, bao hết tất cả chi phí cho một chuyến du lịch qua Âu Châu, có lẽ tôi cũng rất ngần ngại mà đón nhận, vì đó là khoảng thời gian tôi muốn san sẻ cho những mảnh đời bất hạnh ở quê nhà hơn bất cứ nơi xa hoa, tráng lệ nào khác trên thế giới.

Khi màn đêm dần buông xuống, mầu vàng hoàng tộc của Hội-An càng nổi bật dưới những ánh đèn lồng treo khắp phố; nhất là vào những đêm rằm âm lịch, cả khu phố cổ cấm xe cộ lưu thông, khi người dân và du khách mua những đèn hoa đăng làm bằng giấy nhiều màu sắc, giá chỉ $2.500 - 5.000 đồng/chiếc, thả  trôi lung linh trên sông Thu Bồn. Thời khắc này thật là lý tưởng cho nhiều cặp vợ chồng, tình nhân, du khách và những nhiếp ảnh gia như tôi; vì có rất nhiều khung cảnh và mầu sắc rực rỡ để chụp hình và gửi cho người thân quen; lưu giữ để thoảng chốc xem lại, nhớ những giây phút hạnh phúc mà mình đã từng trải nghiệm.



sắc mầu của con đường Bạch Đằng về đêm

Nhiều du khách sau khi đã mỏi chân rảo bộ quanh phố suốt cả buổi chiều, tối đến họ rủ nhau vào đóng đô những nhà hàng mọc đầy rẫy hai bên bờ sông, vừa ăn uống và trò chuyện, họ ngắm cảnh vật và hình dung đời sống thanh bình, giản dị của một xã hội từng hiện diện cách đây vài trăm năm. Tưởng tượng họ giống như là một "Marty" - nhân vật chính trong bộ phim "Back To The Future" , Marty đang ở trong cuối thế kỷ thứ 20 (1985), dùng chiếc xe có kỹ thuật đi ngược dòng  thời gian (time machine), để quay trở về năm 1955 - nhưng ở Hội -An, họ đang muốn sống lại khung cảnh, khoảng thời gian hơn 300 năm về trước.

Trong lúc chụp những tấm ảnh sinh hoạt  ban đêm bên bờ sông Thu Bồn, nhìn những du khách ngoại quốc đang đắm chìm ngắm cảnh sống ở đây, tôi ngẫm nghĩ tới câu "the good old days" (thời vàng son) mà nhiều người già thường nhắc đến, nghĩ đến. Thời nào cũng có người hay dùng câu này và luyến tiếc những dĩ vãng đã trôi qua. Phải chăng đó là những động lực có từ tiềm thức, đưa những du khách này (và cả chính tôi) thích trở lại, ghé thăm những nơi mà bề dầy lịch sử đã có ít nhất trên 100 năm, để được sống lại giây phút êm đềm trong quá khứ, của kỷ niệm - hay là họ muốn tạm thời chạy trốn những phức tạp, hệ lụy của cuộc sống hiện tại ? Có lẽ cả hai, giống như ban ngày coi như là thực, giấc ngủ và mộng mị ban đêm chỉ là ảo. Con người sống giữa hư và thực luôn luân chuyển, thay đổi, mà cuối cùng cũng chỉ được gọi là "cõi vô thường".






nhóc tì bán đèn hoa đăng bên song



buổi tối ăn quà vặt ở Hội-An



Nếu muốn tận mắt chứng kiến thế nào là đời sống thật sự của Hội-An, có lẽ du khách phải dậy thật sớm, khoảng 5 - 6 giờ sáng, mà chẳng cần phải đợi đến "tháng năm chưa nằm đã sáng", mà hầu như quanh năm, cứ khoảng hơn 5 giờ là ánh nắng mặt trời đã lên cao. Những tấm hình hai vợ chồng tôi dậy sớm để đi chụp hình, đó đã là những giây phút phải gọi là "hơi muộn". Vì bình thường, nhiếp ảnh gia nên có mặt ở "hiện trường" ít nhất là nửa tiếng trước khi mặt trời mọc, để bắt được cái khoảng khắc gọi là "giờ hoàng đạo" (giờ tốt) - khi mầu vàng rực rỡ nhất lúc mặt trời lên hay sắp sửa lặn xuống.



bình minh ở Hội-An,  trên con đường Bạch Đằng vắng bóng du khách

Trong khi du khách vẫn còn mải chìm đắm trong giấc mộng, vì họ thường hay thức khuya ăn chơi hưởng thụ cho tới bến, sợ  kẻo vài hôm sau khi rời xa rồi lại đâm nuối tiếc. Những giờ phút đó Hội-An mới chính thực là của người Hội-An, khi mọi người đã thức giấc từ sớm, chuẩn bị bữa ăn sáng cho chắc bụng rồi mỗi người một việc, bận bịu cho công việc hàng ngày.  Những con đường mới tối hôm trước còn nhộn nhịp nhịp đông người qua lại, sáng sớm lại vắng hoe, ngoại trừ những người dân địa phương (và kẻ nào khoái săn ảnh), vì họ có cuộc đời thường bận rộn chứ không như du khách. Đứng trên cầu Hoàng Diệu nhìn xuống con đường Huyền Trân Công Chúa ở phía dưới, thấy chỉ còn lèo tèo hai chiếc thuyền con, đem hải sản từ những thuyền đánh cá lớn, chuyển vào bờ giao cho những bạn hàng đầu mối để họ đem ra chợ bán cho ngày hôm đó.

Trước đó chừng khoảng một tiếng đồng hồ, nơi này tấp nập những kẻ mua bán tôm cá vừa được xuống từ thuyền lớn, đem lên bờ. Họ chọn lựa và soạn ra từng loại hải sản, kích thước rồi cân lượng ngay tại chỗ. Chợ Hội-An nằm cách đó chỉ chừng vài trăm mét đã nhộn nhịp bầy đủ các mặt hàng. Thỉnh thoảng, hiếm lắm mới thấy một, hai mái đầu cao tồng ngồng, lạc loài trong đám dân xứ Quảng Nam thấp người, nhỏ bé. Đó là những tay du lịch, bụi đời này được gọi là "Tây ba lô", họ thích trà trộn vào chỗ đông người bản xứ để quay phim, chụp hình để gửi lên những trang mang giao lưu của họ.


bình minh trên sông Thu Bồn

Mầu của Hội-An có lẽ sớm muộn gì cũng sẽ bị ảnh hưởng, bị nhuộm bởi một điều gọi là "mầu của thời gian", khi kỹ nghệ du lịch đang ngày càng phát triển. Mỗi lần tôi trở lại Hội-An, tôi có cái cảm tưởng con phố giống như một tiểu thư đài các thuở xa xưa đang dần chuyển mình biến thành một thiếu nữ mang nhiều phấn son, trang điểm ở bên ngoài. Hội-An nhộn nhịp, phát triển của năm 2015 khác hẳn với Hội-An của mười năm về trước, khi phố cỗ vẫn còn cái nét vắng lặng, buồn hiu quạnh, nhất là sau trận lũ lớn nhất lịch sử trong năm 2009. Những người ở quanh thành phố này, kẻ sống bám vào kỹ nghệ du khách nay đã trở thành nói thách với giá trên trời, hay bắt đầu nạn chèo kéo khách qua đường (tuy chuyện này xẩy ra cũng ít), nhưng vì miếng ăn và hoàn cảnh kinh tế ngày càng trở nên khó khăn, đó sẽ là chuyện chẳng đặng đừng.
Điều này khiến tôi một lần rưng rưng nhớ lại bài thơ "Chân Quê" của nhà thơ Nguyễn Bính thuở xa xưa,  khi thi sĩ lo sợ  người yêu của mình bị cơn gió của chốn thị thành cuốn lốc, lôi vào vòng xoáy của vật chất, của xa hoa phù phiếm bên ngoài.

Hôm qua em đi tỉnh về

Đợi em ở mãi con đê đầu làng

Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng

Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!



Nào đâu cái yếm lụa sồi?

Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?

Nào đâu cái áo tứ thân?

Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?



Nói ra sợ mất lòng em

Van em em hãy giữ nguyên quê mùa

Như hôm em đi lễ chùa

Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh!



Hoa chanh nở giữa vườn chanh

Thầy u mình với chúng mình chân quê

Hôm qua em đi tỉnh về

Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.

Nguyễn Bính(1940)

Văn hóa là dáng vẻ, là văn minh hội nhập vào với đời sống ảnh hưởng đến lề thói, thuần phong mỹ tục và những nét riêng của một dân tộc, của một vùng đất. Chỉ có những người lo xa, như Nguyễn Bính - sợ cho cái bản tính của người mình yêu bị thay đổi, hay những kẻ "lão làng", cổ hũ chỉ muốn khư khư ôm giữ những quá khứ, phong tục xưa nên chẳng muốn bất cứ sự đổi thay nào. 

Đó cũng chỉ là điều mơ ước mà thôi, vì khi trái đất còn xoay vần, vũ trụ còn biến chuyển thì con người sớm muộn gì cũng phải cuốn theo giòng đời, như con sông sẽ chịu cảnh bên bồi, bên cạn - ước vọng chăng, đó chỉ là tốc độ của cuộc đổi đời xin hãy được chậm lại, cho tri thức (không phải trí thức) và tâm linh con người được bắt kịp, theo kịp để  biết những gì nên thay đổi và lúc nào sẽ được áp dụng.

Tôi nhớ lại những năm từ 1969 - 73, văn hóa và xã hội của thành phố Sàigòn thay đổi một cách nhanh chóng khi mức quân số lính Mỹ đạt đến cao độ khoảng nửa triệu người. Xem lại những tấm hình xưa cũ, dưới thời TT Ngô Đình Diệm cho đến đầu thập niên 70s, họa hoằn lắm mới thấy hình ảnh phụ nữ trong chiếc váy đầm tây phương dài quá đầu gối  xuất hiện trong phố. Đa số là hình ảnh của những bộ áo bà ba, rồi áo dài, rồi áo tứ thân.


Sự xuất hiện của lính đồng minh cũng là khi những quán bar, phòng trà, hộp đêm, nhà tắm hơi, đấm bóp mọc lên như nấm khắp Sàigòn. Thời ăn chơi nhẩy đầm "cực thịnh" của tôi đó là những kiểu "mini jupe" - khi váy đầm ngày càng ngắn - che đủ mông mà rất  thịnh hành, dám mặc ra đường chỉ có dân chịu chơi học ở trường Tây (Marie Curie, Couvent des Oiseaux, v.v...) và đám con ông cháu cha, giới trưởng giả, đua đòi theo thời là đám tuổi trẻ không có tình thương của gia đình, tuyệt vọng vào tương lai cho nên họ bất cần đời, sống  xả láng. Đây là một trong những lý do khiến tôi sớm tỉnh mộng, từ giã cuộc sống khi mình luôn chạy đi tìm cuộc vui tạm bợ, và rất sợ đám con gái học trường Tây.

Câu "ghét của nào, trời trao của đó" quả chẳng sai. Tôi bỏ thành phố Sàigòn bị biến đổi theo thời cuộc để trốn lánh lên Đà Lạt, rốt cục trước khi trở lại Sàigòn -  mình lại vác một nường - dân trường Tây chính cống bà lang trọc - học từ tiểu học cho hết Trung-Học, về làm vợ, để sau này tôi lại "hiên ngang" kể lại cái chiến công của mình qua bài "TÔI LẤY VỢ ĐẦM".

Tóm tắt là, trong cuộc đời, có những biến cố ban đầu tuy không có vẻ gì là quan trọng, nhưng nó đã khai mào, dần thay đổi cục diện, văn hóa của một xã hội, của một nước - dĩ nhiên trong đó cả con người, như tôi chẳng hạn; huống chi là Hội-An; danh từ "phố cổ" và những căn nhà có trên 300 năm, nay cũng chỉ là hình thức, là cái vỏ ảo ảnh đã được khoác lên cả thành phố.

Người ta thường hay nói dân xứ Quảng xưa nay "ăn một hòn, nói một cục". Nghĩa là thấy (biết ) sao nói vậy, rất đơn giản và chân thật. Sau cuộc đổi đời của năm 1975, tiếp theo đó là một khoảng thời gian sống trong thời "Bao Cấp", thế mà người dân Hội-An vẫn không thay đổi, bị ảnh hưởng mấy. Cuộc bể dâu nào cũng để lại bao nuối tiếc về dĩ vãng. Theo sự quan sát và nhận xét của tôi sau bao chuyến ghé về thăm Hội-An, trong lúc bên Âu Châu đã và đang bị thay đổi, đảo lộn bởi chính trị - nhất là kinh tế - nay lại còn bồi thêm cú "di dân" của người Hồi Giáo, khiến bao nhiêu người già sắp sửa hoặc đang nghỉ hưu, họ đã tụ tập, rủ nhau về Việt-Nam mua đất, thuê nhà để ở - để chạy trốn những điều bất an đang xẩy ra trong nước của họ. Nếu so với đám dân Âu Châu tình nguyện "di tản"  sang Việt-Nam thì người Mỹ tuy ít hơn lúc ban đầu, nhưng con số này ngày càng tăng dần. Trong Youtube có một công dân Mỹ, tên tắt là "JC" có những đoạn phim của ông ta, phân tách về giá cả và mức sống ở Cam Bốt, Thái-Lan và Việt-Nam


và còn khá nhiều người ngoại quốc cũng muốn về Việt-Nam để dưỡng già, hay ít ra tạm trú trong một khoảng thời gian khi quốc gia của họ đang trải qua một cuộc đổi đời sau gần một thế kỷ tạm thời được gọi là thịnh vượng, bình yên. Hội-An bây giờ (và nhiều đô thị nổi tiếng khác như Đà Lạt, Đà Nẵng, SG, Hà Nội) đang có những chương trình quy hoạch tầm cỡ quốc tế, xây lên những khu biệt thự, chung cư cao cấp dành cho những giới "di dân" có tiền của và tình nguyện này.  

Hơn 2000 năm trước, chúa Jesus còn bị bán đứng với vài đồng xu, vì con người rất dễ bị thay đổi, ảnh hưởng bởi xã hội mà ít người tự nhận thức ra. Sớm muộn gì thì ngay đến thứ "Áo cài khuy bấm" tân tiến trong thời đại của Nguyễn Bính nay cũng đã được thay thế bởi những chiếc áo thun bó sát cơ thể, hay những chiếc quần đùi bằng vải Jean ngắn đủ che mông, và chỉ cần kéo cái "phẹc-ma-tua" xuống là...tuốt luốt. Tôi tưởng tượng rằng nếu 5 năm sau tôi mới quay trở lại Hội-An, đa số những người ngoại quốc ngồi uống bia, tụ tập trò chuyện bên bờ sông Thu Bồn có lẽ lại là đám dân cư ngụ ở đó, chẳng phải như tôi - chỉ là một du khách ghé ngang, ở tạm một vài hôm để rồi khi về nhà lại ngậm ngùi, khóc thầm cho số phận của Hội-An, của chính đời mình.




Những hình ảnh đời thường (với chút ngông) của Hội-An




thuyền chài nay trở thành du thuyền chở khách, đỡ phải ra khơi tận diệt  những đàn cá



sáng hôm sau, bắt quả tang kẻ sang sông, đang dụ khị
tên chồng mới cưới...





ở Hội-An mà lòng hướng mong về ngày lãnh cái check lương hưu trí...



tự lèm bèm trên con đường lái xe về lại Đè Nẽng (Đà Nẵng)

SVT
12/2016

Comments

Popular posts from this blog

THƠ - KHUNG TRỜI TUỔI TRUNG-HỌC

NHỮNG NẺO ĐƯỜNG QUÊ HƯƠNG - MỸ THO