TRUYỆN - STORIES





NGỘ ÁI NỊ
 
Tôi thua bà chị cả của tôi gần đúng một con giáp , mãi đến bốn năm sau mẹ tôi mới lần lượt có thêm mấy đứa nữa . Thành thử hồi nhỏ trong thời gian đầu chỉ hai chị em , chúng tôi chơi rất thân với nhau . Vì chị tôi ra đời sanh thiếu tháng cho nên người ốm yếu, nhỏ con , tôi nhờ ra sau, mẹ tôi sẵn có kinh-nghiệm với đứa trước cho nên biết cách nuôi nấng hơn một chút, thêm vào đó tôi lại là thằng tham ăn, háu đói, bú sữa mẹ đến năm gần ba tuổi mới chịu ngưng cho nên tôi cao ngồng hơn bà chị . Trong cư-xá chỗ tôi ở, vì tỉ số con trai đồng trang lứa lại ít hơn con gái, cho nên tôi thường hay la cà, tham dự những màn nhẩy dây, nhẩy cò cò chơi chung với đám bạn gái của bà chị . Thoạt đầu, tôi chỉ là tên “gạc đờ co” , kè kè đi theo bảo vệ . Có lẽ thấy tôi hiền, “mặt hoa da trắng” lại hay cười mỉm chi (để che dấu cái răng sún phía trước) như con gái cho nên mấy cô bạn của bà chị thấy vậy dần dần rủ vào nhập bọn . Một nhỏ bạn của bà chị có lần buột miệng bảo là tôi hao hao giống nữ tài tử Lăng-Ba đóng giả trai trong phim Lương Sơn Bá – Chúc Anh-Đài . Tám, chín tuổi mà nghe nói mình giống minh-tinh tài tử điện-ảnh là trong lòng tôi thầm thấy khoái, sướng rên mé đìu hiu . Nghĩ mình có lẽ ngon lắm, đẹp trai lắm . Từ đó tôi không dám cười tô hô, ngoác miệng ra như trước, nhất là để che hàm răng sún của mình . Trong nhóm bạn gái của chị tôi, có một đứa là người Việt gốc Tầu, nhỏ nhất đám có mái tóc dài hay cột kiểu bím đuôi ngựa . Dáng gầy nhưng có khuôn mặt tròn trĩnh với hai gò má phúng phính lúm đồng tiền và đôi mắt tròn xoe, đen láy . Tên con nhỏ là Cẩm-Linh . Đáng lẽ nó không được nhập bọn vì nó mới bẩy tuổi, còn quá “con nít”, chưa biết chơi trò “người lớn” như nấu ăn, bán hàng chẳng hạn . Nhưng vì gia đình nó có tiệm chạp-phô, bán đủ thứ đồ tạp hoá, thức ăn, đồ dùng lỉnh kỉnh trong nhà cho nên đám bạn của bà chị – sau khi “họp mật” – đã chấp thuận cho con nhỏ vào “đảng” với điều kiện là nó phải về nhà “mua không trả tiền” những món gia-vị mà cả bọn tính nấu nướng, bán hàng bữa đó . Còn tôi dĩ nhiên những lúc ấy trở thành tên tà lọt , “được” sai chạy tứ tung, về nhà “thuỗm” than củi, gạo đường, mắm, muối , v.v… cho mấy đấng kẹp tóc trổ tài nội trợ, nấu nướng . Trong những nhiệm vụ “anh hùng, cao cả” ấy, tôi thường theo hộ tống con nhỏ Cẩm-Linh về nhà nó để “lãnh hàng” rồi ba chân, bốn cẳng phóng như bay về “mật khu” trước khi gia đình nó phát giác những hành vi đen tối “tẩu hàng” của tôi và nó . Không biết Cẩm-Linh vì thích được nói chuyện với tôi, hay muốn trả công cho cái việc chuyển hàng “lậu” đó, thỉnh thoảng nó thường hay dúi cho tôi gói ô-mai người ta hay dùng ăn cho ngọt miệng sau khi uống chén thuốc bắc đắng nghét . Quen rồi tôi mới biết Cẩm-Linh là con một trong gia đình, học ở trường tư-thục của người Tầu gần cạnh trường công Nguyễn Thái Học của hai chị em tôi . Ba của Cẩm-Linh ngày nào cũng chở nó đi học bằng chiếc xe đạp cũ kỹ . Người Tầu họ rất căn cơ, cần kiệm và không chú trọng đến bề ngoài . Tôi nghĩ gia đình con nhỏ rất khá giả dư sức sắm chiếc xe gắn máy mới toanh, nhưng có lẽ họ sợ hàng xóm ganh ghét hay sao , tôi thấy họ ít chưng diện xa-hoa . Mỗi lần ba nó đạp xe chở đi ngang qua mặt hai chị em tôi đang đi bộ, nó thường hay dơ tay vẫy vẫy chào .




Cái nụ cười trên đôi môi nhỏ và má lúm đồng tiền của Cẩm-Linh tôi nhìn thấy nó ngồ ngộ một cách khó diễn tả . Có lẽ tại chơi chung với đám con gái nên tôi đâm ra để ý đến phái nữ “hơi” sớm, đã biết chải chuốt cái “sắc đẹp”, lo cho cái bộ vó của mình một cách sớm hơn con trai cùng tuổi . Năm lên mười, tôi không còn la cà theo nhóm kẹp tóc nữa mà hùa chơi, theo gia nhập vào bọn con trai bên cư-xá kế cạnh . Phần thì tôi bắt đầu thấy có một cái gì “kỳ kỳ” khi chơi chung, vô tình nắm tay con gái trong lúc chơi trò bịt mắt bắt dê, phần thì thấy trò chơi của con gái quá dễ ợt, hết còn hào hứng . Chẳng hạn như chơi cò cò, mấy bạn của bà chị dùng miếng gạch ngói thẩy vào ô để nhẩy . Miếng gạch ngói thẩy lên sàn si-măng thường hay bể hoặc tưng rớt sai chỗ, văng ra ngoài ô khác . Tôi ma giáo hơn, lấy vỏ chuối gấp lại làm đôi, muốn thẩy đâu dính đó, xí hết nhiều ô của mấy đấng kẹp tóc . Thậm chí bà chị cả của tôi sau này cũng muốn tôi ra rìa . Cơm hay chè mấy bà nấu cũng vậy . Khét lẹt hay cháy đen như than . Luôn luôn tôi là người bị đem ra để thử trước mấy món ăn ma chê quỷ hờn của mấy thị mẹt . Nhưng tới màn rửa chén, dọn dẹp là tôi kiếm cớ dông liền lập tức . Tôi thấy đi chơi chung với con trai leo cổng chùa hái trộm mận, vào sân nhà thờ hái cắp trái nhãn hay trái trứng cá, chơi tạt lon, dích hình , chia phe làm cao-bồi, mọi da đỏ bắn súng, bắn tên … coi bộ vui hơn nhiều . Thế là thời gian sau tôi quên bén đi mất con nhỏ Cẩm-Linh với đôi má phúng phính hồng dễ thương đó . 



tiểu học Nguyễn Thái Học, kế cạnh rạp cinê Đại-Nam



Cho đến một ngày kia, như mọi bữa , tình cờ đi học hai chị em tôi gặp lại Cẩm-Linh . Con nhỏ không biết sao hôm đó ba nó không đưa đón, đi bộ đến trường gặp phải một bọn ba trợn , hai ba đứa côn đồ theo kéo cái đuôi tóc, chọc ghẹo hát câu “Các chú ba-tầu thằng nào cũng như thằng nấy, thằng nào không “giấy” thì cho nó đi về tầu …” . Tôi thấy nó đứng một mình khóc thút thít . Sẵn máu anh hùng rơm, ỷ biết vài đường quyền võ Bình-Định bố dậy, tôi đưa cặp táp cho bà chị , phóng đến can thiệp . Đứng bên cạnh cao hơn Cẩm-Linh gần một cái đầu, tôi quắc mắc bảo mấy thằng mắc dịch : 


- Ê mấy người ăn hiếp con gái mà không biết mắc cở hả ?

- Rồi sao ! có tức hông hở thằng “gà mái” ? 




Nghe chữ “gà mái” làm tôi bỗng nóng mặt. Chả là vì trong bọn nó có một thằng gần nhà biết tôi năm ngoái hay chơi với con gái, thỉnh thoảng đi ngang nhà vẫn trêu chọc . Giờ thấy tôi làm kỳ đà cản mũi cho cái trò chơi mất dậy của chúng, nó buông câu tính làm cho tôi mất mặt . Tôi cố gắng giữ bình tĩnh, không muốn lộ cái giận run người ở trong lòng : 


- Thằng nào gà mái ? có giỏi đụng tới tao , ăn hiếp con gái 
   nhỏ hơn mày hay ho mẹ gì ! 



Một thằng có lẽ là đầu xỏ trong bọn, thấy tướng tá tưởng tôi gầy còm, “mặt hiền như con gái” , chẳng nói chẳng rằng , nó xông đến dơ tay muốn thoi tôi một cú vào mặt . Tôi vội vàng đẩy Cẩm-Linh sang một bên , né cú đấm của nó và đồng thời bước tới luồn người xuống phía cánh tay của nó, ba ngón tay phải tôi xỉa mạnh ngay cái huyệt ở dưới nách . Lối chuyển mình một cách chớp nhoáng và cú đánh nhẹ của tôi cũng đủ làm thằng cô hồn các đảng khụm người, tê điếng một phần bên trái của nó . Thấy tôi có vẻ biết võ và thằng đàn anh của mình thoáng một cái đã bị quỳ gục xuống trong tích tắc, cả bọn bèn hùa nhau bỏ chạy . Hai chị em tôi đưa Cẩm-Linh đến gần trường nó rồi mới băng qua đường đến trường mình . Tối hôm đó, ba của Cẩm-Linh dẫn nó qua nhà tôi ngỏ lời cám ơn . Con nhỏ chỉ nhìn tôi cười mỉm chi và lí nhí nói vài câu theo lời ba nó bảo . Trước khi về nó dúi cho tôi hai gói ô-mai kèm theo câu “Cám ơn Bình nhen !” nói nho nhỏ như sợ mọi người nghe thấy . Tự dưng chưa ăn mà tôi đã tưởng tượng, thấy vị cam thảo ngòn ngọt ở cuống họng . Lần này, tôi đã không bóc ăn hai gói ô mai đó , chỉ đặt nó trên bàn học để dành mà ngắm và thỉnh thoảng nghĩ đến cái nụ cười dễ thương có cái răng khểnh của con nhỏ rồi thấy lòng nao nao . Thỉnh thoảng hôm nào ba của Cẩm-Linh đi xa mua hàng hay xe đạp bị xẹp bánh không thể chở nó đi học, Cẩm-Linh thường hay chờ cho hai chị em tôi đi ngang nhà rồi đi ké theo cùng . Từ ngày ra tay “anh hùng hào hiệp” tôi thấy Cẩm-Linh lại càng bé bỏng, nhỏ nhắn hơn trước mặc dù bây giờ nó cũng bắt đầu lớn xộn cao gần bằng tôi . Con gái có khác. Lớn trước con trai một cái ào rồi thôi . Mấy thằng bạn cùng tuổi sau này gặp Cẩm-Linh đứa nào cũng đâm ra ngờ nghệch , ngớ ngẩn . Có lẽ tại tôi quen với nó cả hai, ba năm chơi chung hàng ngày nên không thấy điểm gì lạ . Lúc thằng bạn thân của tôi khen Cẩm-Linh có nét giống nữ tài Miêu-Khả-Tú, đóng chung với Bruce Lee trong phim Đường Sơn Đại Huynh, tôi mới để ý và công nhận rằng nó nói đúng . Một lần chị tôi bị bịnh ở nhà, tôi sánh vai với Cẩm-Linh đi học đến trường . Trên đường , tôi hỏi Cẩm-Linh có thể chỉ cho tôi học vài câu tiếng Tầu . Con nhỏ cười khoe cái răng khểnh :

- Bình muốn học tiếng Tầu làm gì ?

- Để biết đâu sau này Bình đi Hồng-Kông chơi, coi sách báo nói về minh-tinh, tài tử Tầu…

- Ý da, coi bộ Bình mê phim kiếm hiệp Tầu quá hén !

- Cũng vầy vậy thôi, mà muội có muốn chỉ tiếng Tầu hay không hở ?

- Ừ, chỉ thì chỉ … Bình muốn học chữ gì nào ?

 
Nghe hỏi tôi đâm ra lúng túng, lọng cọng , nghĩ mãi mới rặn ra được một câu :
- Tị dụ như Bình muốn hỏi “Chào cô mạnh giỏi” thì nói làm sao ?

- Nị hầu mạ

- Cái gì ? Cẩm-Linh nói cái gì nghe ngộ ghê ta !

- “Nị hầu mạ” nghĩa là “chào mạnh giỏi”

- “Nị hầu mạ” ? Tôi lập lại .

- Ừ ! Bình nói đúng giọng đó . Con nhỏ cười mỉm chi .

- Thế còn câu “tao đánh mày bây giờ” ?

- “Ngộ tả nị xẩy ah” . Ý da, bộ Bình tính kiếm chuyện, đánh lộn 
    với ai sao mà học câu đó ?

- Không , tính hỏi chơi thôi . Còn câu “Tao thích mày” ?





Tôi bấm bụng, hỏi một cách bạo gan hơn một chút .

- “Ngộ ái Nị “ . Cái này dễ òm ! Cẩm-Linh tưởng ai cũng biết chớ …

Tôi nhìn nó cười cười :
- À ! ngộ ái nị hả ? dễ quá hén… ngộ ái nị …tôi thích em… ngộ ái nị … 



Tôi thỉnh thoảng lập đi lập lại câu nói đó trên con đường đến trường làm như muốn thuộc lòng cái bài học vỡ lòng của mối tình đầu chập chững mới lớn . Không biết con nhỏ đã nghĩ gì , tôi thấy khi không nó im lặng, không nói mà đôi má bỗng đỏ ửng như hai trái đào trong mấy cuốn lịch Tết người ta hay treo , tặng quảng cáo cho không vào dịp Tết. 

Thời gian sau, tôi gia nhập đoàn Hướng-Đạo rồi mải mê đi cắm trại, thi đua tháo vát và ham vui , thoả chí tang bồng với cái chân trời tự do, bao la không bị tù tùng quanh quẩn ở nhà, nơi cư-xá . Tôi quên khuấy mất Cẩm-Linh, chỉ mang máng đâu như nó thôi không còn theo học trường ở gần nhà nữa , mà đã vào nội-trú ở trường Regina Pacis của mấy bà soeur . Rồi năm mười bốn, mười lăm tuổi tôi thường cúp cua, bỏ học để tập tành ăn chơi kiểu hippy cùng với ông anh họ . Mới đầu mẹ tôi còn dụ khị, hễ mỗi tháng đứng từ hạng nhất tới hạng năm, tôi sẽ được thưởng năm trăm đồng . Một số tiền khá lớn trong khi tiền ăn sáng, tiền quà của tôi lúc đó chỉ được có hai chục một ngày . Tháng nào cần tiền thì tôi đứng từ hạng nhất tới hạng năm, không thì tôi tụt xuống hạng chót, đội sổ . Bố đi làm, mẹ đi buôn cả ngày, tôi như con chó hoang, tung hoành ăn chơi, nhẩy đầm khắp nơi . Thỉnh thoảng chủ nhật đi lễ nhà thờ của trường Regina Pacis ở đường Tú-Xương , tôi gặp Cẩm-Linh trong bộ nữ-sinh áo đầm đồng phục ngồi chung với đám bạn học nội-trú có hai bà sơ ngồi cạnh như bà giám-thị, canh chừng . Tôi bỗng nhớ lại mới ngày nào sau khi được rước lễ lần đầu, trên đường về gặp con nhỏ có khuôn mặt tròn trĩnh, hai má hồng hồng dễ thương, tôi chọc ghẹo thò tay béo má Cẩm-Linh làm nó - không biết vì giận ghét hay xấu hổ - bỏ chạy, trốn biệt . Mãi hơn hai tháng sau nó mới thò mặt ra chơi chung với nhóm bạn gái của bà chị tôi . Bây giờ lớn lên gầy bớt đi, khuôn mặt trở thành hình trái soan với cái cằm nhọn . Vẫn mái tóc dài nhưng không còn cột bím đuôi ngựa nữa . Tôi thấy Cẩm-Linh đẹp hơn Miêu-Khả-Tú nhiều . Một cái đẹp vừa liêu-trai, vừa thuỳ-mị, đáng kính . Nhưng lúc đó cảm tưởng như mình kẻ ăn chơi, hoang đàng nhiều tội lỗi, tôi chỉ dám ném cái liếc trộm nhìn về phía nàng rồi vội vàng cúi đầu đọc kinh, tan lễ ra về mà không dám dừng chân lại hỏi han đôi câu . 

Sau này, năm tôi mười bẩy tuổi . Chán chường với những cuộc ăn chơi đua đòi, nhậu nhẹt, nhẩy đầm thâu đêm suốt sáng với bọn nhà giầu con ông, cháu cha . Tôi bỏ nhà đi giang hồ, muốn tìm một định nghĩa, một phương hướng nào đó cho cuộc đời của mình . Với những tháng ngày ngao du ấy, tôi thấy cuộc đời sao lắm đau thương, đầy phiền muộn . Cái chết nhiều khi đến một cách cũng chẳng ngờ . Trong đám bạn vào không quân, vài thằng đã bỏ mạng, trở về với gia đình trong áo quan phủ kín dưới lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ . Mới ngày nào còn nhậu nhẹt, chở nhau đi cua đào, tán gái . Giờ đã nằm dưới ba tấc đất . Thằng thì bị pháo kích chết trong tết Mậu-Thân đến nỗi mất xác, chỉ còn lại cái chân trên giường ngủ . Sống đó chết đó . Tất cả dường như chỉ là trò đùa, một vở tuồng bi kịch . Chỉ có hình ảnh của Cẩm-Linh, thỉnh thoảng vẫn còn phảng phất , hiện hữu trong tâm khảm, nhưng có lẽ vẫn còn cái mặc cảm về những năm ăn chơi truỵ lạc, tôi thấy mình không xứng đáng để tìm gặp lại người con gái, khơi dậy lại mối tình thơ ngây ban đầu . Một lần, trong buổi dạ tiệc đêm Giáng-Sinh ở biệt-thự của một người bạn gái , con của một ông đại-tá làm tỉnh-trưởng miền Trung, giữa lúc mọi người quay cuồng , chìm đám trong tiếng nhạc , đứng một mình trên sân thượng tránh cái khói thuốc ngột ngạt bên trong, tôi chợt nghĩ tại sao mình phải lệ thuộc vào người khác để tìm cái niềm vui trong thoảng chốc, và sau đó chỉ còn lại những khoảng trống, giọt đắng trong lòng . Tôi bỗng nẩy ra cái ý định thử đi tìm hiểu về đạo lý, về cuộc đời, tại sao có những khổ đau của loài người, đồng thời tôi cũng đã mỏi mệt, chán chường kiếp ăn chơi, hoang đàng bao năm nay . Thời gian ngắn sau , quen nhiều tu-sinh ở một vài chủng-viện đây đó , tôi tìm thấy một sự an bình , thanh thản – không còn những tư tưởng chán đời, yếm thế như trước . Tôi tưởng lầm có lẽ không chừng mình có số đi tu thật . Vậy đó mà chỉ hơn một năm – sau khi miền Nam buông súng đầu hàng năm 1975 – tôi gặp một người con gái cũng dịu hiền, cũng có cái nét giống Cẩm-Linh ngày xưa , có điều nàng thấp hơn Cẩm-Linh gần cả cái đầu, quen nhau khá lâu rồi tôi mới dám chọc ghẹo, gọi nàng là con “vịt xiêm”, “vịt đẹt của anh” . Chúng tôi làm đám cưới vội vã trước khi âm thầm, lẳng lặng dắt nhau xuống thuyền vượt biên hai năm sau . Nhờ trời thương cho nên vợ chồng tôi xuôi thuyền, thuận gió sang đến đảo Phi Luật Tân và được tị nạn sang Hoa-Kỳ . Vợ tôi không những có nét giống Cẩm-Linh mà tánh tình cũng gần như vậy . Hay dỗi hờn và dễ khóc mặc dù đôi lúc cũng đổ lì, hơi bướng ít nói . Chúng tôi thường tâm sự rằng sẽ có ngày nào đó về lại quê nhà, vợ chồng tôi sẽ đi tìm giúp những trẻ em mồ côi, xây cất trường học cho những đứa bé thiếu may mắn này . Thoáng chốc mà đã hai mươi năm trôi qua , con cái đã lớn, đứa đã ra đời và ở riêng, tự lập . Tôi tưởng ước vọng của hai vợ chồng đã gần kề , chỉ chờ đứa út ra trường đại-học là chúng tôi bắt tay vào làm cho cái mơ ước của mình thành sự thật . Nào ngờ cuộc đời nhiều nghịch cảnh, bất ngờ. Một hôm đi làm về, tôi thấy một phong thư để lại trên bàn ăn . Mở ra đọc được vài hàng, tôi bỗng choáng váng, sững sờ . Người vợ tôi hằng yêu thương, ôm ấp bao năm nay viết thư để lại, nói nàng cần có một “khoảng cách” sống riêng biệt để tự tìm hiểu về chính nàng, về những gì nàng mong muốn cho cái quảng đời còn lại . Hãy để cho nàng được tự do, bảo tôi yên tâm đừng tìm kiếm nàng trong một thời gian ngắn . Rồi khi nào hiểu thấu những khúc mắc trong lòng, nàng sẽ quay trở về và cho tôi biết . Hai tháng sau nàng trở về thật, nhưng nàng trở về với giấy tờ ly-dị đã soạn thảo sẵn chỉ cần tôi ký tên vào đó . Gặng hỏi nàng cũng không nói nhiều , đại khái chỉ nói rằng thấy tôi mỗi ngày một xa lạ, tình cảm của nàng đối với tôi hình như đã không còn . Trong lúc tôi có những ước mơ quá “cao sang” , vẽ những mộng đẹp “thánh thiện” cho người khác mà không để ý nàng bắt đầu thích những chuyến du-lịch, đi chơi đây đó . Tôi cố giải thích rằng rồi cả hai cũng sẽ có những chuyến ngao du như thế, hoặc ngay bất cứ lúc nào nàng muốn . Nhưng hình như khi con tim của một người đã có những nhịp đập thay đổi, những ước vọng muốn ngã rẽ mới . Hoặc đã chán những nếp sống phẳng lặng, bình thường – như nàng bảo tôi không còn “lãng mạn”, “say mê” nàng như thửơ hai người còn yêu nhau . Tôi không phải biết nói làm sao . Những bài thơ tôi làm cho nàng, ngày xưa làm nàng rung động bao nhiêu, bây giờ nàng lại càng dửng dưng, không buồn đọc, đã vậy thỉnh thoảng lại ghen bóng gió với những nhân vật giả-tưởng trong truyện . Bên ngoài ai cũng nghĩ hai vợ chồng tôi thật đẹp đôi, hạnh phúc hiếm thấy . Thế rồi cũng không tránh được cái cao trào thoái hoái của xã-hội Mỹ . Sự đổ vỡ của vợ chồng tôi làm cho con số thống-kê của những gia đình ly dị đã sẵn cao nay lại nhẩy thêm một con số nữa . Ít lâu sau, tôi nghe nói nàng sang Úc cặp bồ lại với người bạn trai mà ngày xưa trước khi gặp tôi, đã mê mẩn thần phục và chiều chuộng nàng hơn ba năm trời . Khi gặp tôi, nàng bỗng thấy hắn đâm ra trẻ con, mặc dù tôi chỉ hơn hắn một, hai tuổi gì đó . Giá mà ngày xưa biết hai người đang quen nhau, tôi đã chẳng nhào vô tán tỉnh. Tánh tôi kỳ cục là không muốn phá vỡ hạnh phúc, làm người khác đau khổ , vậy mà đôi ba lần đi theo làm quân-sư “quạt mo” cho thằng bạn cách cua đào, bạn gái của nó lại “chịu đèn” tôi - kẻ ngang phè phè, chỉ muốn rong chơi làm thơ, tính chuyện tu hành . Cũng đôi lúc nghĩ lại, tôi thấy mình vì thương người đâm ra vô tình làm vài việc “ác đức” . Chẳng hạn thấy trong lớp những cô gái xấu xí, nhiều người chê, không ai tán . Tôi làm thơ không ký tên để gởi tặng họ . Làm như có kẻ vô danh ái mộ những cô nàng kém may mắn . Hoặc đôi lần đi học thật sớm, tôi hái trộm những cành hoa cúc trắng, hay nụ hoa hồng mọc bên hiên nhà, sân nhà của người lạ, đem vào lớp và để trên ghế ngồi của những cô giá xấu xí này . Nhìn khuôn mặt họ hân hoan, sung sướng khi khám phá ra những cánh hoa , những bài thơ lãng mạn dấu dưới ngăn bàn học . Tôi thấy lúc ấy trong lòng mình thầm vui lây, chia sẻ cái sung sướng của họ . Khi đã chán cuộc sống của cái tỉnh lỵ nhỏ bé và rời bỏ để đi đến ở chỗ khác, sau tôi chợt hiểu rằng mình đã vô tình tạo ra và làm vỡ cái mộng tưởng của những cô gái nọ . Chắc có lẽ ai đó đã đau khổ vì cái hành động kém suy nghĩ về hậu quả, thiếu chiều sâu của tôi , nên có thể bây giờ bị vợ đòi ly-dị là cái giá phải trả cho những hành động vô ý thức của tôi ngày xưa .

Thời gian hơn một năm sau, tôi vẫn còn luyến tiếc, nhung nhớ người vợ cũ với bao nhiêu kỷ-niệm của những ngày chung sống bên nhau . Hình như ít cặp vợ chồng nào mà không có những cơn sóng gió lớn trong đời . Tôi nghĩ mãi, nhận ra rằng vợ chồng tôi chỉ có những chuyện hục hặc xẩy ra sau khi đã đưa gia đình nàng sang được Hoa-Kỳ đoàn tụ . Thời gian đầu, vì sau bao năm trời xa gia-đình, nàng chăm lo cho cha mẹ, anh chị em rất chu đáo, hết lòng . Tôi khuyên vợ nên cẩn thận, đừng quá phí sức, cũng nên để cho họ học hỏi một chút tự lập . Nàng tưởng lầm tôi ích kỷ, không muốn giúp đỡ gia-đình nàng . Về sau vợ tôi mới biết, sau bao năm gia đình nàng sống dưới một chế-độ hà khắc, ngu xuẩn chỉ biết dậy con người tánh vị kỷ, tham lam - không cách chi vợ tôi chu toàn , làm đủ cái gọi là “bổn phận đối với gia đình” mà cha mẹ, anh em của nàng đã lên án . Tôi biết trước nên không giận vợ tôi hoặc ngay chính cả gia đình bên vợ . Chỉ tội nghiệp vì họ đã không thấy những thảm cảnh sẽ xẩy ra sau này khi mỗi người ra ở riêng . Sau cú xốc vì chuyện gia đình của nàng . Sức khoẻ của vợ tôi yếu hẳn đi , ít còn những nụ cười hồn nhiên như ngày xưa . Ngay cả đến cái nhìn vô tư, thành thật về cuộc đời của nàng cũng bị thay đổi không ít . Từ ngày lấy nhau , tôi xốc vác hết tất cả mọi chuyện, không muốn để vợ phải đi làm, chỉ ở nhà nuôi con cho chúng nó nên người , tôi muốn chúng nó tránh cái bài học mà tôi đã trải qua thời niên thiếu . Trước ngày gia đình nàng qua Mỹ, vợ tôi rất dễ cười vì máu tiếu lâm, thích nghịch ngợm của tôi . Có lẽ nhờ đó mà nàng trẻ lâu . Hơn ba mươi tuổi mà chưa có một người Mỹ nào đã đoán nàng trên hai mươi lăm, hăm sáu . Có người đến nỗi lầm tưởng vợ tôi còn là học trò đang ở bậc trung-học . 


Giở đống hình ảnh cũ, nhìn lại những tấm hình kỷ-niệm tôi chụp cho vợ tôi ngày trước . Đôi lúc nhìn vài tấm hình, nàng gợi nhớ cho tôi cái phảng phất, nét dáng của một người con gái tuổi ô-mai, cột tóc đuôi ngựa thưở xa xưa . Để tìm quên nỗi buồn đang gặm nhấm trong tâm hồn, tôi thu xếp mọi công việc, dặn dò hai thằng con lớn – đứa đã ra trường có việc sống tự lập, đứa đang học năm thứ hai – chỉ cho chúng nó biết những sổ sách, giấy tờ nhà cửa , cần thiết xong đâu đó . Tôi gia nhập vào cơ-quan từ-thiện Habitat For Humanity của cựu tổng-thống Hoa-Kỳ Jimmy Carter, bay sang Phi-Luật-Tân theo đoàn thiện-nguyện đi vào những vùng làng mạc, hẻo lánh để xây cất những mái nhà lợp tôn, vách gỗ đơn sơ cho những gia đình nghèo khó . Thấy những đứa trẻ thơ gầy ốm, đói khát, bệnh tật hay những người già cả, yếu đuối không đủ manh áo che cái lạnh, cô đơn giữa nơi rừng thiêng, nước độc . Tôi thấy cái buồn ly dị, cô đơn của mình chưa thấm bằng những cái đau khổ của người khác . Thêm vào đó, xa cách cái khung cảnh xô bồ, một xã-hội chỉ biết chạy đua với vật chất và thời gian . Tôi thấy không gian như cô đọng chậm dần lại, tâm hồn tôi an định hơn đôi chút . Sau khi làm việc gần sáu tháng với cơ-quan Habitat For Humanity, tôi thu thập được thêm một mớ kiến thức mới như lối đào giếng và lọc nước, cách thức tổ chức một dự án lớn như thế . Sẵn có những dự tính trong đầu, tôi trở về Việt Nam , thăm lại quê hương sau hơn hai mươi năm xa cách . Ngày bước xuống phi-trường Tân-Sơn-Nhất, tôi nghe lòng nao nao – không biết trong lòng mình vui hay buồn . Ít hôm sau, tôi thấy lòng buồn nhiều hơn vui, nhìn những trẻ thơ lang thang xin ăn , ngủ vất vưởng bên vỉa hè, bụi bờ . Với cái ý định sẽ xây cất một cô-nhi-viện, một trường học như ký-túc-xá để thu nhặt những đứa trẻ vô gia đình, vô nghề nghiệp , đem về nuôi nấng dậy dỗ cho chúng nó nên người tốt trong xã-hội . Nghe nói ở Di-Linh, Bảo-Lộc có một dòng nữ-tu đang khởi đầu, bắt tay vào làm công việc đó . Tôi thu xếp hành trang, đón chiếc xe đò đến nơi để tìm hiểu, xem có thể giúp đỡ họ trong cái công tác đầy tình thương, bác ái này . Trên đường đi, tôi bâng khuân hồi tưởng lại những ngày tháng phiêu du, theo những chuyến xe đò hay dùng cái thẻ phóng-viên báo-chí của mình để quá giang đoàn công-voa của quân đội đi đây đi đó, lang bạt thăm viếng nhiều nơi trên quê hương . Hai mươi năm sau từ bên kia nửa trái đất trở về, tôi vẫn còn nhớ – không thể nào quên được – từng tiếng động náo nhiệt hay những quãngg đường thanh vắng của quốc lộ từ Sàigòn lên Bảo-Lộc, Đàlạt . Ngày xưa đi nhiều lần như cơm bữa , tôi có thể vừa ngủ gà ngủ gật trên chuyến xe đò, nhưng vẫn biết xe đang đi đến đâu tuỳ theo tiếng động ở bên ngoài, độ dằn vì xe cán lên ổ gà và mùi hương thoang thoảng bay trong gió . Nhất là khi sắp đến Bảo-Lộc, mùi trà sen và cái khí hậu mát lạnh lùa vào làm tôi tỉnh ngủ hẳn . 

Xuống xe đứng ở bên lề , tôi hỏi thăm quanh quất những người buôn bán về nơi chốn và đường đi đến chỗ tu-viện, làng cô-nhi đang xây cất . Họ bảo tốt nhất nên thuê một người lái xe ôm sẽ đưa tôi đến tận nơi , vì chỗ đó tuốt bên trong làng, gần ngoài bìa những đồn điền trồng vườn trà . Một người lái xe ôm vội vàng phóng đến khi thấy tôi ngoắc tay gọi . Ông ta trông có vẻ thật thà, lương thiện qua lối nói chuyện trả giá . Tôi cười thầm khi ông ta mừng rỡ lúc tôi bằng lòng với cái giá một cuốc xe mà tôi đoán biết, có lẽ trả hơi quá lố . Đối với tôi lúc đó năm đô-la chả thấm vào đâu, nhưng sẽ là một bữa cơm đầy đủ, thịnh soạn cho cả gia đình của ông ta bữa đó . Mà quả thật, tội cho chiếc xe gắn máy Honda già nua cũ kỹ , con đường làng đất đỏ, lỡm chởm những ổ gà, sình lầy sau trận mưa lớn tối hôm trước, chạy dài ngoằn ngoèo đến cả hơn chục cây số mới đến cổng của một trang trại treo bảng tên “Trại Thiện-Tâm”, nét sơn vẫn còn có vẻ mới, bên trong cổng vỏn vẹn ba căn nhà tranh lợp mái tôn, lụp xụp, nghèo nàn . Tôi dặn người tài xế xe ôm chờ tôi ở cổng, rồi vác lên vai cái ba-lô và cái sách tay nhỏ bước vào một căn nhà trông rộng rãi , thoáng khí ở giữa sân . Bên trong, một người đàn bà trạc độ trên sáu mươi, trong bộ áo chùng thâm, đầu mang chiếc khăn nhà dòng, đeo sâu chuỗi thánh-giá trước ngực, bước ra tự giới thiệu và hỏi : 



- Tôi là soeur Lan, coi sóc trại ở đây, xin lỗi ông muốn kiếm ai ?

- Thiên Chúa ở cùng soeur, tôi nghe nói ở đây có dòng nữ-tu Mến Thánh-Giá đang mở một trang trại cho các trẻ em mồ côi nên tôi muốn tìm hiểu để có thể góp tay, xin giúp đỡ làm được một điều gì đó . 



Tôi chào soeur với một thói quen của người thường đi nhà thờ ở Mỹ và nhận thấy nét vui mừng, rạng rỡ lộ trên nét mặt hiền hoà nhưng khắc khổ của người đàn bà đã hy sinh trọn cuộc đời của mình cho một lý tưởng phụng sự cao cả . Bà soeur mời tôi ngồi xuống chiếc ghế đẩu làm bằng thân cây cổ thụ được cắt thành từng khúc, chà đánh giấy nhám trên mặt cho bóng để trở thành một cái ghế ngồi thực dụng, thật giản dị . Bà vừa loay hoay, bắt bếp lửa để đun một ấm nước pha trà, vừa ân cần kể chuyện về cái trang trại mới được khánh thành, khởi sự gần một năm nay . Tôi chợt nghĩ có lẽ câu chuyện sẽ dài cho nên xin phép tạm gián đoạn , bước ra ngoài trả tiền cước xe cho người tài xế, cho ông ta thêm vài ngàn đồng Việt để ăn trưa, dặn ông ta trở lại khoảng hai tiếng đồng hồ đón tôi rồi sẽ tính sau mọi chuyện . Trở lại với soeur, tôi ngồi xuống gợi chuyện dang dở lúc ban nẫy : 


- Dạ, ngoài Soeur ra còn ai giúp soeur một tay hay không ? Tôi thấy có lẽ còn nhiều công việc lắm phải không ạ ?

- Có chứ thưa ông… à xin lỗi ông tên chi để gọi cho tiện .

- Chết thật, tôi quá vô ý, xin lỗi soeur, dạ tôi tên Bình .

- Không có chi ông Bình . Tôi còn có hai soeur nữa phụ giúp . Một đang ở ngoài nông trại dậy mấy đứa trẻ cách trồng tỉa, một soeur nữa ở Saigòn , đang mua sắm chút vật dụng và kiếm tìm hỏi thăm có đứa trẻ nào không có cha mẹ, thân quyến muốn theo về đây ở chung với chúng tôi . Ngày mốt soeur ấy trở lại . Hiện tại trại đang có hơn mười hai cháu, tuổi từ ba, bốn cho đến mười một, …mười lăm . Chúng tôi cần thuốc men, quần áo cũ, ít dụng cụ học đường…. cái gì cũng thiếu thốn cả như ông đã thấy .

- Thế có ai giúp đỡ, như chính phủ chẳng hạn, đóng góp chút gì cho soeur, cho cái trang trại này không ạ ?

- Thưa ông, chúng tôi mới mở trang trại này gần được một năm nên chỉ có một số ít người biết đến và quyên tặng . Chính quyền cấp phát, cho chúng tôi được mảnh đất này đã là may mắn lắm rồi . Tôi chỉ mong, trông cậy vào tình thương của những người như ông đem đến cho mấy cháu . 



Tôi bảo với soeur đó là cái mục đích trong chuyến đi này của tôi, và kể sơ qua những điều tôi đã dự định, muốn đem lại niềm an ủi cho những kẻ bất hạnh, thiếu may mắn . Nhìn những đứa trẻ xa xa đang tới lui, chăm chú làm việc ngoài vườn , tôi thầm nghĩ và so sánh chúng nó với những đứa con của tôi . Tưởng tượng, nếu ngày xưa vợ chồng tôi vẫn còn ở lại Việt Nam, vì lý do hoàn cảnh nào đó hai đứa con tôi phải lang thang đói khát , sống không biết nguồn gốc , tương lai của mình về đâu . Khoảng cách giữa hai hoàn cảnh thực hư – nghĩ ra thấy quá gần, quá mong manh . Như cái hạnh phúc vợ chồng của tôi, mới ngày nào đó mà nay đã là dĩ vãng, xa mờ . Sau khi hỏi han thêm về dăm ba công việc , dự tính sắp đến của trang trại , thấy người tái xế xe ôm trở lại đón , tôi kiếu từ người soeur già đầy từ tâm này, hẹn ngày mai sẽ trở lại sau khi tìm được một chỗ trọ, khách sạn nào đó ở ngoài phố . Trước khi rời, tôi không quên lôi ra trong cái ba-lô những túi kẹo bánh đem về từ Mỹ, đưa cho bà để chia cho những đứa trẻ . Đêm nằm trong căn phòng vắng dưới ánh đèn néon trắng lạnh, tôi suy tư thầm nghĩ đến thân phận nhỏ bé của con người, của chính tôi, có lúc muốn mình như một “loài sâu ngủ quên trong tóc chiều” của Trịnh Công Sơn, cuộn mình trong thiên-thu chờ một kiếp mai, và tôi thiếp đi hồn lạc vào quá khứ, chìm vào trong giấc mộng ngày còn tuổi thơ lúc nào tôi cũng chẳng hay . 


Hôm sau thức dậy thật sớm, ghé xuống quán nhỏ bên đường ăn miếng bánh mì với cái trứng tráng và ly càfe đen đặc sản của thị-xã Bảo-Lộc . Tôi chợt thấy kỷ-niệm của hơn hai mươi năm trước như sống dậy trong lòng . Đó là những buổi sáng la cà , ngồi nơi quán cốc ăn miếng xôi, khúc khoai mì, bắp luộc , hôm nào “xịn” có chút tiền thì dĩa trứng chiên với ổ bánh mì nóng hổi, uống ly càfe trong lúc chờ đợi chuyến xe đò đưa tôi đi về những phương trời , góc phố của quê-hương . Tôi hồi tưởng, nhớ lại lần đi săn với vài người bạn phi-công, được chiếc trực thăng bốc lên khỏi khu rừng thuộc vùng tam giác sắt Pleiku-Komtum-Ban Mê Thuột, mới đó vừa băng qua con suối nước chẩy cuồn cuộn để đến bãi đáp , lúc bay lên cao độ, nhìn xuống chỉ thấy cánh rừng như một bức thảm trải dài mầu xanh lá, che dấu không còn thấy những con suối ở phía dưới . Tôi đã liên tưởng đến cuộc tình trong sáng, thánh-thiện thưở ban đầu , không biết Cẩm-Linh có bao giờ thấu hiểu rằng tôi đã yêu nàng tựa “… yêu người như suối cuộn rừng sâu… như con giun ngước lên trời, như trăng sao vời vợi… ” của Phạm Duy qua bài Phượng Yêu . Bản nhạc đó cùng với bài “Em hiền như ma soeur” một thời đã ru ngủ, an ủi cái tâm hồn hoang mang tuyệt cùng của tôi ngày ấy . Bây giờ, ngồi đây giữa đám đồng loại cùng mầu da, cùng ngôn-ngữ, tôi thấy mình như Lưu-Nguyễn đi lạc bao năm nay trở về . Khung cảnh và đời sống quen thuộc vẫn còn đó , tôi một mình vẫn cô đơn như ngày nào . Hôm thứ nhì trên quê-hương, tôi tìm lại chổ cư-xá cũ, căn nhà của bố mẹ tôi nay đã được cả ba gia đình cán bộ chiếm đóng từ ngày gia-đình tôi vượt biên ra đi , căn nhà của Cẩm-Linh cũng thế – toàn những khuôn mặt xa lạ ra vào . Tôi hỏi thăm nhưng chẳng ai biết gia-đình của nàng ở đâu . Thỉnh thoảng nghĩ, hình như tôi đã tiếc cho cuộc tình ngây thơ không trọn vẹn nhiều hơn là luyến tiếc cho cái hạnh phúc vợ chồng vừa mới đổ vỡ . Có lẽ tôi tự biện hộ, cho rằng mình ít nhiều gì đã làm tròn đầy đũ bổn phận với vợ tôi, con tôi . Riêng mối tình xa xưa đã không có đoạn kết, cũng chưa hẳn ngã ngũ khiến cái tiềm thức của tôi thoảng vẫn sầu vơi, nghĩ về nàng . 


Trưa hôm đó tôi trở lại trang trại như đã hứa . Lần này gặp soeur Maria – khoảng chừng ba mươi – trông có vẻ tháo vát, nhanh nhẹn – theo lời mẹ bề trên ( soeur Lan) bảo dẫn tôi đi thăm những luống đất mới trồng các loại khoai , bắp, hành , ngò , rau cỏ … để ăn hàng ngày . Còn chỗ các em trú ngụ, lớp học , ngoại trừ cái bảng đen trên tường còn tương đối khá mới, những chiếc ghế ngồi học mang vẻ như cũ kỹ, lung lay . Có lẽ đã được lấy đem cho từ một ngôi trường bỏ hoang nào đó gần đây . Giường ngủ đều làm bằng tre, đốn từ trên rừng đem xuống . Không đủ số giường chiếu cho nên cũng có vài đứa bé được cho nằm chung với nhau . “Nhiêù khi ngủ thế mà chúng nó đâm ra đỡ lạnh, tuy sáng dậy thấy chân đứa này gác lên vai, lên bụng đứa kia…” . Giọng phân trần, kể chuyện của soeur Maria thật vui vẻ, không chút than van, oán trách . Lúc đến gần hàng rào, tôi hỏi thăm về cái diện tích của trại Thiện-Tâm, soeur Maria bảo rằng hiện tại trại chỉ có được hơn năm mẫu , còn thêm vài mẫu đất gần bìa rừng – cũng do chính phủ trợ cấp – chưa được đốn cây, khai phá để làm vườn . Đó là công việc chính của soeur Joanna cùng với mấy đứa lớn mười ba tuổi trở lên trợ giúp . Chiều mai sau khi soeur ấy từ thành phố trở về nghỉ ngơi và sau đó sẽ tiếp tục làm công việc này . Tôi đề nghị nên làm chuồng nuôi heo, gà để lấy trứng ăn hoặc đổi bán lấy thịt, cá cho thêm phần dinh dưỡng . Thêm vào đó dùng phân của chúng nó làm phân bón rất tốt cho việc trồng trọt . Soeur Maria cười, bảo rằng mẹ bề trên cũng đã nghĩ đến, nhưng vì ngân sách đang gặp “sự cố” (hoàn cảnh khó khăn) và không ai biết làm những công việc đóng chuồng đó cho nên tạm để qua một bên . Nghe nói thế, sau khi bàn với người tài xế xe ôm , tôi thân mật tạm gọi là bác tài, rủ bác đi ăn buổi trưa và hỏi thăm chỗ mua sắm những vật liệu xây cất . Bác chở tôi đi một vòng đến hai chỗ bán gỗ, đinh ốc trong phố . Tôi đặt cọc mua một số thanh gỗ, vật dụng, dặn chở đến trại tôi sẽ giao hết phần còn lại . Bác tài cũng ghé ngang qua nhà của bác, lấy cho mượn một vài kìm, búa, đồ cưa tay đoạn chở tôi về lại trang trại . Buổi chiều, mấy đứa nhỏ thấy xe chở gỗ đến và nghe nói tôi sẽ đóng vài cái chuồng gà , chuồng heo cho trang trại, chúng nó bu lại xin phụ một tay . Tôi vui vẻ phân chia công việc khiêng gỗ, cưa gỗ cho mấy đứa lớn , còn mấy đứa bé đứng xì xào, thì thầm nhìn và nói chuyện về gia súc . Trong lúc chờ đợi làm xong chuồng, tôi đưa một số tiền cho soeur Maria đi mua một cặp lợn và một số gà, vịt về làm giống . Khuôn mặt Soeur hớn hở và luôn miệng “Cảm tạ chúa đã dẫn dắt ông có lòng thương đến với các cháu “ . Tôi bỗng triết-lý, cảm thấy làm vui lòng thượng-đế có lẽ còn dễ hơn làm vừa lòng con người . Vì ngài hiểu tấm lòng và khả năng của tôi, trong khi con người đôi lúc lòng tham vô đáy , sự hiểu biết nông cạn không biết thế nào là đủ . Như đối với các con tôi ngày xưa, việc đóng chuồng, nuôi hai con thỏ cho chúng nó chỉ là vấn đề giải trí, rồi cũng mau chán, thích những thứ khác . Ở đây, một con gà, một trái trứng vừa đem đến niềm vui cho trẻ con, vừa thêm phần dinh dưỡng cho chúng nó . Tôi tưởng tượng đến những bữa ăn có thêm vài quả trứng, miếng cá , hay miếng thịt … cho những đứa trẻ mồ côi này, tự dưng tôi thấy lòng phấn khởi, hăng hái, bắt tay ngay vào công việc , không muốn phí chút thì giờ . 



Trưa hôm sau , đang ở trần mặc mỗi chiếc quần jean vì trời nóng, loay hoay chăm chú đóng gần xong cái chuồng gà - chỉ thiếu vài thước hàng rào với lỗ hổng bằng kẽm để làm cánh cửa . Tôi chợt nghe giọng ai như reo mừng gọi, hỏi tên mình :

- Ah ! xin lỗi , có phải Bình đó không ? 

Tôi quay đầu nhìn qua bên phải, nhìn khuôn mặt và nhận ra giọng nói vừa gọi tên, tôi ngẩn người ngạc nhiên, suýt làm rớt cái búa xuống đất vì người đàn bà trong chiếc áo choàng đen của dòng nữ tu-kín đứng cạnh : 

- Cẩm-Linh… ! soeur Cẩm-Linh đấy à ! Phải rồi . Bình đây …

- Chúa ơi ! nghe nói Bình ở Mỹ mà người ngợm sao đen đúa như thế này !

Cẩm-Linh đã đổi tên từ lâu, giờ gọi với tên thánh là “Joanna” .
Cẩm-Linh, nay gọi là soeur Joanna, vừa reo mừng và chỉnh lại cho tôi biết cái tên mới của nàng, bước tới đưa tay cho tôi bắt . Nàng bảo vừa mới trở về từ thành-phố Hồ Chí Minh, nghe nói có Việt kiều về giúp làm chuồng nuôi gia súc, định ra tiếp chuyện và cám ơn . Thấy dáng tôi quen quen và nhìn một chập cái nét mặt tôi mải mê làm việc không biết nàng đến gần bên cạnh . Cẩm-Linh nghĩ nàng đoán không sai nên bạo dạn hỏi thăm . 

- Chao ơi ! bao năm rồi mà Bình không mấy thay đổi … ở Mỹ chắc cuộc sống thoải mái lắm hả Bình ?


- Soeur nói thật không đấy ? Bình mà không thay đổi mấy ! tưởng mình già lắm rồi chứ, hay là soeur không có ô-mai định cho Bình uống nước đường, đi tầu bay giấy ? 




Tôi cười khẽ, chế nhạo Cẩm-Linh với câu chuyện ngày còn nhỏ . Câu nói đùa vô tình làm soeur Joanna có vẻ hơi xúc động . Tâm hồn tôi cũng giao động không kém . Suốt cuộc nói chuyện, gần chót tôi mới nhận ra có lúc lẫn lộn tôi gọi nàng với cái tên “soeur Joanna” một cách cung kính, lúc thì gọi bằng Cẩm-Linh một cách thân mật như ngày xưa . Không ngờ cuộc đời nàng cũng nhiều gian truân, sóng gió không kém . Gia đình nàng toan vượt biên năm bẩy sáu nhưng bị lộ tẩy, bố mẹ nàng bị lính tuần-giang xả súng bắn bỏ thây ngoài sông rạch ở Bến Tre . Cẩm-Linh thoát được nhưng tứ cố vô thân, may nhờ gặp lại bà soeur ở trường cũ cho tá túc trong tu-viện , thời gian ở chung nàng cảm nhận được cái tình yêu của thiên-chúa cho nên đã khấn nguyện khoác chiếc áo dòng với tên thánh là Joanna, và theo chân người mẹ đỡ đầu là soeur Lan hiện tại .

 Tôi cũng kể sơ qua hoàn cảnh của mình và lý do tôi muốn trở về Việt-Nam . Soeur Joanna ngỏ ý đáng tiếc cho cái hôn nhân đổ vỡ của tôi, và sau đó nhìn tôi mỉm cười, nụ cười với chiếc răng khểnh hiền hậu ngày xưa đã làm hầu như suốt cuộc đời tôi ray rứt , tương-tư - bảo là nàng biết tánh tôi từ nhỏ hiền lành. “Linh đã tin rằng rồi thế nào Bình cũng sẽ làm những việc từ-thiện như vầy…” . Tôi muốn, nhưng đã kịp thời dừng lại, chỉ sợ xúc phạm – không dám hỏi về chuyện tình cảm của Cẩm-Linh trước khi nàng mặc áo nữ-tu, theo chân Chúa . Tối hôm đó cả ba người soeur muốn đãi tôi một bửa ăn đạm bạc, canh rau dền luộc cà chua chấm mắm chanh ớt và mấy miếng cá chiên . Tôi không từ chối, ngồi ăn hai bát cơm ngon lành , lòng thấy phơi phới, hân hoan một cách khó tả . Đêm trở về nằm ngủ ở khách-sạn, tôi cảm thấy nó bớt đi cái lạnh lẽo, trống vắng như ngày đầu . Tôi đâm trở thành một con chiên ngoan đạo, quỳ gối bên chân giường đọc kinh Lậy Cha, kinh Kính Mừng mà tôi tưởng đã quên vùi sau bao năm nghĩ mình tội lỗi , biếng nhác đến nhà thờ . Tôi cám ơn Chúa đã giúp tôi thấy lại hình ảnh tuổi thơ cũ, gặp lại người đã làm linh hồn tôi ngậm ngùi, lo âu bấy lâu không biết số phận ra sao . Nay biết nàng đã yên vui với cái hạnh-phúc, với cái tình yêu vĩnh cửu nơi Thiên-Chúa . Tôi thấy nếu được nhắm mắt , cho một giấc ngủ dài vào thiên thu trong lúc này, ngay đêm nay, có lẽ tôi mãn nguyện, đội ơn và sẽ không một lời than trách . Cuộc đời đối với tôi có lẽ thế cũng đã gọi là đủ , nhưng tôi biết mình còn nhiều việc cần phải làm, cái thánh-giá tôi xin mang vì cái tình thương và cảnh khổ đau của người khác đã nung nấu trong lòng bao năm nay . Với sự lao động , làm việc tay chân lúc ban ngày và tìm được điều giải thoát cho cái khúc mắc trong tâm hồn . Tôi nằm lăn quay ra ngủ giấc ngon lành, không mộng mị, hay nhớ gì một giấc mơ nào cho đến sáng .

Những ngày kế tiếp, tôi phụ với mọi người trong trang trại ra vào làm đủ thứ việc . Kể ra những cái tôi từng học hỏi, thu nhặt được trong bao nhiêu năm làm kẻ “handyman” – thợ lặt vặt - độc nhất trong nhà . Bây giờ đâm ra lại đem nhiều ích lợi, thực dụng hơn hết trong hoàn cảnh này . Thấy tôi sửa chữa những chân bàn, chân ghế lung lay, bị gẫy trở thành cứng cáp, vững chắc . Cẩm-Linh bảo với soeur Maria đứng bên cạnh : 


- Bình ngày xưa hay làm thơ, bàn tay làm việc văn-phòng mà không ngờ lại  giỏi nghề thợ mộc quá há !

- Soeur không biết tên thánh đỡ đầu của Bình là Giu-Se hay sao ? Tôi nói.

- Thảo nào, thánh hộ mạng là thợ mộc thì Bình cũng rứa thôi.



Soeur Maria cười, cũng muốn góp phần vào câu chuyện . Thỉnh thoảng lúc rảnh rỗi, nghỉ tay . Cẩm-Linh kể cho mẹ bề trên và soeur Maria về những mẫu chuyện ngày xưa của chúng tôi , như chuyện tôi một mình trong đám kẹp tóc hồi còn nhỏ lấy trộm đồ ở nhà để tập tành nấu ăn . Lần hái trái trứng cá liệng chọc đám con gái đi học giáo-lý trong nhà thờ (nhưng nàng không nhắc đến lần bị tôi tinh nghịch bẹo má ). Đôi lúc nàng đang cùng với mấy đứa thiếu-nhi đi chặt cây , khai quang những đám bụi rậm để có thêm đất trồng trọt, không biết nàng trở về trại từ lúc nào để lấy nước uống, tôi tình cờ quay lại gặp nàng đứng lặng yên , đôi mắt hiền hoà nhìn tôi đang đào mương làm rãnh thoát nước . Tôi cũng đôi lần kín đáo ngắm nhìn nàng chăm chú may vá, dịu dàng chải tóc, săn sóc cho những đứa bé mồ côi, ngây thơ . Trông Cẩm-Linh lúc ấy thật thánh-thiện, cao sang vời vợi, giống như trong cái trí tưởng xa xưa của tôi đã nghĩ về nàng . Ngày xưa đóng vai “Đường-Sơn đại-huynh” để bảo vệ nàng “Miêu Khả Tú” nho nhỏ trong mối tình ngây thơ, khờ khạo . Bây giờ ngược lại , Cẩm-Linh có thể cầu nguyện, xin cho tôi được sự tha thứ, chút bình an . Hình như có một cái khoảng cách thiêng-liêng nào đó ỡ giữa hai chúng tôi . Tuy không nói nhưng có lẽ tôi lẫn nàng đều muốn giữ cái cách khoảng vô hình nhưng rõ ràng đó . Nhất là lúc bàn bạc về kinh-thánh, đạo lý . Khuôn mặt nàng như rạng rỡ, hân hoan lên khi nghe tôi nói về cái tình yêu bất diệt, bao la của thiên-chúa, của thượng-đế mà tôi đã nghiệm thấy trong đời . Tôi một lần đổ vỡ với cái tình yêu đã thay đổi theo thời gian, còn nàng – không biết có phải vì không tìm thấy một cái tình yêu nào bền vững, lâu dài hơn cho nên đã chọn con đường đạo, hy sinh cuộc đời này cho tha nhân . Nhưng nói như thế không có nghĩa là mọi người nên đi tu để được cái tình yêu thánh-hoá, trọn vẹn - hoặc những người đi tu không được phép, có quyền yêu đường người khác . Làm sao cấm cản, lay chuyển được nhịp đập của con tim . Điều này khó có thể chối cãi được, tôi chỉ có thắc mắc riêng một điều là tại sao Chúa lại cho những người như tôi, không những biết yêu sớm mà còn yêu nhiều . Nhưng tôi không yêu nhiều như kiểu của Mai-Thảo . Ông chính thực là một nhà văn sống trọn đời cho văn-chương và nghệ-thuật . Dù quen biết Mai-Thảo chỉ một thời gian ngắn, tôi thấy ông yêu nhiều nhưng không muốn bị ràng buộc hay lệ thuộc bất cứ vào ai . Những cái tình yêu có thật đã thoảng qua – hay trong trí tưởng – đã làm văn, thơ của ông xúc tích đầy tình cảm, nhiều lãng mạn . Đối với Mai-Thảo, ông đã “tu” trong văn-chương và sản phẩm tình yêu của ông là những tác phẩm ca tụng về nhiều chuyện tình thật đẹp, tuyệt đối cho dù trong tan vỡ – như sau này khi qua đời, ông cô đơn ra đi chỉ một mình một bóng trong căn phòng studio nhỏ nhắn ở khu phố Bolsa . Còn tôi, tôi thấy mình chỉ là kẻ một bình thường nếu không nói là tầm thường, tại sao Chúa không bắt hoặc cho tôi chỉ yêu ngài từ ban đầu – hay ít ra giống nhà văn Mai-Thảo – sống một mình để yêu - như tôi vừa nói đến . Tôi nhận thấy trong nội-tâm cuả mình hình như đang có sự xung khắc giữa cái ích kỷ, muốn thố lộ cho Cẩm-Linh biết rằng tôi vẫn còn yêu nàng, và phần muốn nàng vẫn yên vui, hạnh phúc trong cái chân-lý nàng đã thề hứa, theo đuổi bấy lâu nay . Giữa cái khổ trước đó không biết cuộc đời của Cẩm-Linh đã ra sao và cái dằn vặt mới đây của nội-tâm . Tôi làm theo lời của nàng thường nói : “Cầu xin thì sẽ rõ lời giải đáp của Chúa . Em thấy luôn luôn được sự soi sáng khi lòng mình đã thật tâm muốn biết “ . 


Hôm sau, trong lúc đang đổ đống xi-măng cuối cùng làm cái nền cho căn nhà thứ tư của trại Thiện-Tâm, tôi bỗng nghe một tiếng nổ ầm vang dội từ xa . Chợt nhớ nó tương tự như tiếng nổ của một quả lựu đạn hay của một trái đạn phóng lựu M79 thời còn chiến-tranh. Thấy khói bụi bay lên gần phía bìa rừng, chỗ soeur Joanna và một đứa thiếu-nhi đang chặt cây, cuốc đất . Một nỗi lo sợ từ đâu chợt xâm chiếm tâm hồn, tôi vội vàng bỏ cái xẻng cầm trên tay, tất tả chạy về phía mé rừng . Sau hơn hai mươi lăm năm chinh chiến, bao nhiêu tai ương, thảm hoạ vẫn còn vương vất, đôi khi xẩy đến cho bao người dân vô tội . Thỉnh thoảng vẫn còn vài người tử-vong, thương tích nặng vì vô tình cầy, cuốc trúng những đạn bom hay quả mìn xưa kia đã gài bẫy, để lại quên chưa tháo gỡ, chưa nổ . Đến nơi, tôi thấy một thằng nhỏ mình bê bết, dính đầy máu nằm duỗi thẳng yên không nhúc nhích . Tôi cầm lấy cổ tay nó để tìm nhịp mạch máu và ghé tai lên lồng ngực nghe trái tim đập . Tất cả đều im lặng, ngưng đọng. Lật mí mắt nó để hy vọng cái sự sống vẫn còn trong thằng bé . Thấy con mắt nó trợn ngược . Tôi biết rằng đã trễ . Vuốt mắt và đặt thân thể nó xuống đất . Quay nhìn tìm kiếm Cẩm-Linh, tôi thấy ở cạnh bìa rừng, cách tôi độ chục bước, nàng đang khuỵ xuống quỳ bên một đầu gối, tay phải ôm chặt lồng ngực như thể người đang lên cơn đau tim . Tôi phóng tới kịp lúc để đỡ nàng ngả vào người tôi : 

- Bình ơi, bé Kiệm bị thương nặng không ? Sao Linh đau ngực quá...! 

 
Tôi chưa muốn cho nàng biết gì về tình cảnh của bé Kiệm trong giây phút này, chỉ nhẹ gỡ bàn tay Cẩm-Linh đang nắm chặt trước ngực , xem vết thương nặng nhẹ như thế nào . Ngực áo nàng bây giờ đang vấy đầy máu . Một mảnh kim loại đã xuyên thủng chiếc áo dòng, cắm ngập vào ngay dưới vùng trái tim của nàng . Tôi không phải là y-sĩ nhưng đủ để biết vết thương của Cẩm-Linh nếu không có phương tiện cấp cứu khẩn cấp thì cơ hội cứu sống thật quá mong manh . Trong hoàn cảnh này, tôi chỉ muốn gào lên thật to cho mọi người, cho thượng-đế thấu nghe tiếng thống thiết, nỗi đau đớn trong lòng tôi . Xa xa, thấy bóng mẹ bề trên và soeur Maria cùng mấy đứa trẻ lúp xúp, hốt hoảng chạy đến . Tôi để đầu của Cẩm-Linh ngả vào vai mình, vỗ về hỏi thăm cho nàng dịu cơn đau, nhưng Cẩm-Linh chợt run người, giọng mệt nhọc : 
 




- Bình ơi ! sao em lạnh quá, ôm em một chút đi anh !!!

- Nằm yên, có anh đây . Cẩm-Linh đừng nói nhiều kẻo mất máu thêm … 



Tôi vòng tay ôm xiết chặt lấy Cẩm-Linh vào lòng, muốn dùng tất cả bình sinh , nghị lực con người của tôi để truyền sang, sưởi ấm nàng . Nhưng tôi biết tất cả đã muộn, nàng mất máu quá nhiều . Ở một chốn héo lánh, xa xôi cách biệt , thiếu thốn đủ mọi tiện-nghi cần thiết . Không một trạm y-tế cứu thương hay một bệnh-viện nào gần đây . Tôi cảm thấy mình hoàn toàn bất lực , hèn mọn trước cảnh đau thương, đành đoạn này . Gương mặt Cẩm-Linh vốn đã tiều tuỵ, gầy yếu nay lại càng thêm xanh xao, trắng bệt . Giây phút chờ đợi trôi qua tưởng chừng như thiên thu, Cẩm-Linh chợt hé mắt, nhìn thấy trên khuôn mặt của tôi thoáng nét tuyệt vọng, buồn bã, nàng khẽ mỉm cười như an ủi . Nụ cười với chiếc răng khểnh năm xưa không bao giờ xoá nhoà trong tâm khảm, trong hồn tôi . Giọng nàng thoảng nhẹ như giấc mơ : 

- Đừng lo nhiều cho em nghe anh . Em thấy hình như có thiên thần với áo trắng  đứng trong ánh sáng đang dang tay chờ đón … Có lẽ Chúa đã gởi anh về đây  để tiếp tục công việc, cho em được yên nghỉ . Em sẽ chờ anh …
 

Nàng chợt ngắt quãng vì một dòng máu đỏ thắm vừa trào ra lên khoé miệng . Tôi ôm đầu nàng để dựa sát vào ngực , tôi cố nhếch môi cười cho nàng an tâm trong lúc hai giòng lệ lăn dài trên má : 



- Anh biết, rồi mình sẽ gặp lại nhau . Nhưng Linh ơi , tha thứ cho anh ngày xưa 
 
đã không hề nói một lần với em …
 



Đang nói, tôi cảm thấy bàn tay của Cẩm-Linh bóp nhẹ tay tôi như muốn nhắn điều gì . Đôi má nàng chợt hồng lên rạng rỡ một cách lạ thường, ngước lên với cái nhìn thật hiền, trìu mến, môi nàng mấp máy: 

- Linh biết, trong lòng em đã mãi mãi vẫn biết như thế, 
  biết từ ngày em dậy anh  học câu “Ngộ ái nị” …




Tôi cười qua nước mắt :
- Hoá ra anh tưởng chỉ riêng mình anh còn nhớ “Ngộ ái nị” .
  Anh yêu em.  Anh vẫn yêu Cẩm-Linh từ thưở đó . Chúa ơi !
  ngày xưa sao không  cho anh nói  được một cách dễ dàng …

- Đừng tiếc anh ạ, có lẽ ý Chúa muốn đôi ta mỗi người phụng sự ngài một cách .  Rồi chúng ta gặp nhau để làm nốt công việc cuối cùng này . Đến lúc Linh phải  đi, họ đang chờ đợi em… Anh yêu, đừng buồn anh nhé. Em sẽ luôn luôn bên  cạnh anh…

 




Giọng Cẩm-Linh nhỏ dần, nhỏ dần và cuối cùng bằng một tiếng thở hắt thật nhẹ , cánh tay nàng buông xuôi, đôi mi khép kín vĩnh viễn . Khuôn mặt nàng bấy giờ trông thật bình thản như đang dựa trên vai tôi, ngủ một giấc mãi mãi thôi không còn mộng mị . Mặc dù đã nghĩ và cho rằng cái lòng tin vào Thiên-chúa của tôi thật vững vàng và sẽ không hề bị suy suyễn . Tôi quá đớn đau để mở miệng kêu than hay cầu xin cho linh-hồn của nàng. Chỉ nhớ mang máng rằng hình như trong lúc mọi ngừơi đến tụ tập, vây quanh quỳ xuống đọc kinh , tôi vẫn ôm xác Cẩm-Linh và thì thầm lấy một mình dăm ba câu chữ Tầu mà ngày xưa nàng đã dậy tôi thưở mới biết yêu lần đầu . 

SVT-2001
 





Dư Âm Ngày Tháng



 Một trong những kỷ niệm êm đềm và thơ mộng nhất - ngoài những tháng ngày lang thang ở Đà Lạt - càng ngẫm nghĩ, tôi thấy thời gian từ lúc còn tạm trú ở đảo Wake, cho đến ngày mình ở trong trại tỵ nạn Fort Chaffee - lo làm giấy tờ và chờ người bảo lãnh để rời trại; đó là khoảng thời gian thần tiên, chả phải làm lụng cực nhọc gì cả, suốt ngày chỉ lo xếp hàng đi ăn sáng-trưa-chiều tối - rảnh rang để có nhiều mộng ước, mơ xa về một tương lai rạng rỡ phía trước mặt.
Cùng chung một khu cư xá binh sĩ mà đại gia đình tôi được chỉ định đến, may mắn hơn nữa là đã được ở trong căn lầu gỗ với người thiếu tá phi công - vừa đào hoa và lại có một giọng hát thật truyền cảm - cũng là một thần tượng của mình lúc vào tuổi thanh niên - đó là nam ca sĩ Sĩ Phú;  cách nhau chỉ bức tường gỗ mà đêm nào cũng có những cuộc hội họp vui ca hát, kể chuyện và luôn cả những đêm mở sòng bài xì phé hay đánh chắn (chả nhớ rằng  ai lại đem được những thứ "quốc hồn, quốc túy" này trên con đường tị nạn, khi chẳng hề biết phương hướng mà mình sẽ lưu lạc, đi về đâu.)

Sở dĩ tôi được làm quen và thân cận với người ca sĩ  có giọng hát truyền cảm và nghệ sĩ này chẳng qua cũng nhờ mẹ của tôi. Mẹ tôi được vài người trong trại đã xung phong vào làm bếp trong trại Fort Chaffee, đem về những bắp cải - tuy đã bị sa thải chỉ vì vài lớp rau bên ngoài bị dập, không đủ tiêu chuẩn của nhà bếp, nhưng vẫn còn ngon lành,  dùng được vào việc làm món dưa chua. Tôi nhờ từng đi Hướng Đạo, nên được giao "trọng trách" lùng kiếm những đám hành lá mọc dại đầy rẫy quanh trại, nhất là quanh nơi có rãnh sông lạch chạy ngang, xuyên qua khu trại lính. Tôi đào nhổ những củ hành lá này đem về cho mẹ  tôi làm món dưa muối cùng với bắp cải xanh. Khi trời bắt đầu vào cuối xuân, khí hậu vùng Arkansas trở nóng cho nên  chỉ cần ba, bốn hôm sau đã có món dưa chua; cộng với vài con cá kho tiêu - do tôi câu được cũng ở dòng suối bên cạnh - rồi mẹ tôi bảo đem một ít sang, mời những người phi công hàng xóm, ăn vài miếng cho đỡ ghiền, chút hương vị cho đỡ nhớ quê hương. Trước khi đi, vốn luôn sẵn máu đùa nghịch, chọc ghẹo - tôi nghịch ngợm, quẹt lên mép của mình lớp than đen từ đáy nồi cá kho, thành một bộ râu, để khi anh chàng ca sĩ này hỏi tên tôi là gì, tôi tỉnh queo trả lời "Dạ, tên em là Sĩ Điều" - đồng thời cùng với hình ảnh tôi hóa trang khuôn mặt có bộ râu mép bắt chước Sĩ phú -  khiến mọi người trong sòng bài đánh Chắn tối hôm đó bò ra cười lăn lóc, vì ai cũng hiểu - nó là tên của một lá bài Chắn họ đang sát phạt - bằng tiền lẻ đô la - đánh chơi giết thì giờ, cho qua ngày.



&



Thế là từ đó - vài  người đùa giỡn, gọi là  một cặp bài trùng - tôi (Sĩ Điều)  - trở thành chơi thân với Sĩ Phú, chia sẻ những kỷ niệm ngày còn ở quê nhà, thỉnh thoảng cũng vài đêm ngâm thơ, đàn hát. Riêng chuyện con gái và phụ nữ ở cùng trại, thì chả thiếu gì kẻ từng ngưỡng mộ và mê Sĩ Phú như điếu đổ; trong đó có một cô tên H. quen với mẹ tôi,  thường viện cớ rủ tôi sang phòng kế cạnh để được gặp mặt và trò chuyện cùng với thần tượng của mình. Một hôm, cô nàng này nhất định muốn Sĩ Phú phải hát cho mọi người nghe một bản nhạc mà cô ấy yêu thích - nhất là với giọng hát truyền cảm của chàng phi công đào hoa này. Sau khi bị mọi người từ cái mức độ khẩn thiết yêu cầu cho đến ép uổng, hù dọa, chọc ghẹo, Sĩ Phú lúc ấy mới với tay, lấy cây đàn trong tay của một sĩ quan KQ khác (người này tên T. Trọng A., nhưng vì tánh tình hay "nổ" cho nên được mọi người "nhẹ nhàng" sửa lại thành T. Trọng Pháo : ) -  vừa lên dây, sửa giây đàn - chàng ca sĩ này nửa đùa, nửa thật bảo:



- Mọi người muốn nghe nhạc "chùa" thì tôi hát sao ráng
   nghe vậy nhá!  sau đừng trách là chẳng bảo trước....



Rồi Sĩ Phú  nghiêm nghị, bắt đầu búng giây đàn, hắng giọng mình vài giây, làm tăng thêm sự hồi hộp của căn phòng đầy nhóc người ái mộ đang chờ đợi, nghe chàng trình bầy bản Dư Âm của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý , nhưng thay vì diễn tả một bài lãng mạn đi vào lịch sử âm nhạc của Việt nam trong thời tiền chiến, Sĩ Phú đã hát:



- "Em yêu tôi ít, tôi yêu em nhiều, tiên sư bố em...."



Chỉ thế thôi mà thiên hạ phá ra cười lăn lộn, vì không ai ngờ một giọng hát ấm áp, đầy trữ tình lại có thể chuyển thành một câu biến cải, thật "bựa" như vậy. Đó chỉ là một góc cạnh nhỏ về cái máu tếu của Sĩ Phú. Tôi còn nhớ hôm cùng với Sĩ Phú tình nguyện đi lãnh thùng quần áo cũ - đồ "second hand"  - nhưng cũ  người mới ta, đem về để phát cho mọi người, nhất là những chiếc áo ấm cho người lớn tuổi rất cần thiết.  Sau khi phát hết thùng đồ cũ mà chẳng  thấy thứ nào vừa vặn cho mình, Sĩ Phú bèn than phiền với một người lính bộ binh Mỹ, dịch chính xác theo tiếng Việt rằng "anh nhìn xem, quần áo trên người tôi mặc có phải giống như tên giặc Cờ Đen hay không?". 


Nghĩa là trên người của Sĩ Phú thì quần không đi với áo, mầu mè thì choảng nhau chí chóe. Chẳng giống ai. Chung quy cũng tại vì chàng cao hơn người thường, mà quần áo cũ quyên góp - chắc đã được báo trước  là dành cho người Việt - thì có mấy ai cao như cây sào, như dân lái máy bay, phi công. Bởi thế, nội cái quần của Sĩ Phú "diện" lên cũng ngắn cũn cỡn, trông rất tếu - nhưng chàng vốn là nghệ sĩ bất cần đời, mà ai có lỡ nén bụng, nín cười tủm tỉm thì chàng cũng tỉnh bơ, coi đời như củ khoai lang.

Tiếc rằng đại gia đình của tôi lúc bấy giờ có được người bảo lãnh ra sớm, đó là gia đình của một cựu quân nhân  ngày xưa đã từng thuê phòng ở nhà ba mẹ tôi;  tôi phải từ giã Sĩ Phú để bay về tiểu bang Utah, bắt đầu một cuộc viễn du dài trong cuộc đời làm kẻ tỵ nạn.



Mấy tháng sau, tôi nhận được lá thư viết tay của Sĩ Phú, kể lại những ngày buồn tẻ ở trong trại, thiếu tôi là một kẻ hay thọt lét, lấy chàng ra làm đề tài để đùa giỡn, nghịch ngợm - và nỗi buồn mỗi tăng khi nhìn những người ở cùng  phòng, cùng trại dần dà ra đi. Thực sự, cho đến ngay bây giờ, tôi chẳng còn nhớ chi tiết gì của lá thư, nhưng bài thơ Sĩ Phú viết - có thể chắc đã từng gửi cho một vài giai nhân nào đó - nhưng không sao, tôi vẫn nghĩ bài thơ đó viết cho riêng mình, gửi gấm tâm trạng và nỗi lòng, mà hơn gần 42 năm sau, vẫn còn nhớ 4 câu thơ của người nghệ sĩ đào hoa lẫn tài hoa nhưng vắn số - để ghi lại cho mọi người đọc cùng tưởng niệm:




(ảnh minh họa)



Em đi năm tháng qua mau
rượu rưng rưng cạn dáng sầu còn ngân
nơi em về chắc đang xuân
còn ta vô định xót thân cội già...

Sĩ Phú (1975)



Sở dĩ thỉnh thoảng tôi vẫn còn tưởng nhớ đến người phi công nghệ sĩ tài hoa này, vì mỗi lần bất chợt, tình cờ nghe lại những bản nhạc nổi tiếng qua giọng hát của Sĩ Phú, chẳng hạn như bài "Cô hàng Cà Phê, Cô Láng Giềng, Dư Âm, Nụ Cười Sơn Cước, Em Tôi, Khi người yêu tôi khóc, vv....", đó là những bản nhạc đã theo chân tôi trong những tháng năm đi hoang nhiều nơi trên quê hương, và nhất là thời gian dừng chân ở Đà Lạt.





Tôi còn nhớ dạo ấy mình đã bắt đầu muốn từ bỏ tật hút thuốc lá, nhưng đến ở một nơi hay có những cơn mưa bụi với không khí lạnh, những buổi sáng sớm trời còn mù sương, tôi hay đi thong dong một mình quanh bờ hồ Xuân Hương, vừa hít vào lồng ngực những hơi thuốc lá để suy ngẫm, suy tư về cuộc đời. Thuốc lá đối với tôi có lẽ là một người bạn thân, tri kỷ. Thuở đó, tôi bắt đầu "xuống cấp" - hút thuốc hiệu Capstan – sau nhiều nhất là Bastos - vì lúc ấy không còn kiếm ra tiền nhờ những cú chạy "áp phe" (business deal) như mua bán, đổi tiền đô la xanh, đô la đỏ; hoặc mua đồ trong PX  rồi bán bỏ mối ở vài chợ quanh Sàigòn. Có tiền rủng rỉnh, tôi thường chơi thuốc hiệu Salem  (lính tráng thời đó đi hành quân hoặc lúc rảnh rang, hay nghĩ chuyện vớ vỉn, "phụ đề Việt ngữ",  đổi thành câu "Sao Anh Làm Em Mệt", và đọc ngược lại  "Mà Em Làm Anh Sướng " ), mà một gói thuốc hiệu Salem có thể mua/đổi được hơn 2 gói Bastos. Không đầy nửa năm sau khi còn ở Đà Lạt, tôi bỏ luôn tật hút thuốc lá từ đó cho đến ngày nay, cũng chỉ vì không muốn bất cứ thứ gì làm mình trở thành nghiện ngập, nô lệ hay lệ thuộc vào nó.



Trước khi giang hồ đi tứ xứ, tôi mua cuộn băng 10' và bỏ nguyên cả 2 đêm dài thâu lại những bản nhạc tiền chiến và đương thời đang thịnh hành, để thỉnh thoảng khi ghé vào những quán cà phê nào có những loại đầu máy xôm tụ cỡ như Akai, Teac...chẳng hạn, tôi nhờ chủ quán mở ra chơi cuốn băng này cho mình và khách cùng thưởng thức trong lúc ngồi "đồng" hàng giờ, uống cà phê và nghĩ đủ thứ chuyện tào lao.



Những ngày chưa đến Đà Lạt, tôi luôn mang theo một cuộn băng này - loại reel to reel - mà lúc còn làm cho một kios - chuyên sang băng nhạc  - ở đường Nguyễn Huệ - đối diện với thương xá Tax, SG;  ban đêm tôi đến làm công việc thâu nhạc chọn lọc do khách hàng đặt. Nghĩ lại đôi lúc cũng chột dạ, thấy mạng của mình quả là "quá lớn". Vì chủ nhân sợ bị mất cắp hàng hóa, máy móc, cho nên họ khóa cửa sắt kín mít ở bên trong, bên ngoài; sáng sớm hôm sau họ mới đến mở cửa cho nhân viên về nhà. Lúc ấy mà nhỡ có một trận hỏa hoạn xẩy ra thì mạng của tôi cũng coi như tiêu!



Ở  Đà Lạt, tôi thường đem cuộn băng nhạc mình tuyển chọn đến nghe ở quán cà phê Hương-Sơn, hoặc là quán Tao Đàn ở đường Minh Mạng (nay gọi là Trương Công Định); nhờ những bản nhạc thâu trong đó đã cho tôi cái ý tưởng về một chuyện tình tưởng tượng, mà mãi hơn 13 năm sau - tôi mới có dịp nghe lại những bản nhạc xưa và ngồi xuống viết thành bài truyện ngắn "Những Mùa Xuân Không Đến". Bởi vậy, nhạc hay không chỉ vì khi tự nó đã hay, nhưng nó còn chứa đựng cả một khoảng bầu trời của kỷ niệm, của quá khứ mà tôi chắc chắn rằng khi chúng ta ngày càng lớn tuổi, cũng sẽ đồng ý  là "ký ức còn nhiều hơn tương lai".



Những bản nhạc do Sĩ Phú hát đã từng được tôi nghe đi, nghe lại chẳng biết bao nhiêu lần mà ngay cho đến bây giờ cũng chẳng thấy chán, trái lại còn khiến cho tâm hồn mình càng lâng lâng, ngậm ngùi - chạnh nhớ lại những Dư Âm của người xưa, của ngày tháng cũ đã qua đi và mãi mãi chẳng bao giờ còn trở lại.



SVT

03/2017







BUỔI CHIỀU








Cô nhỏ ngồi một mình như thế cũng khá lâu, bó gối nhìn những con còng gió chạy lăng quăng, hay dùng ngón tay vẽ nghịch  ngợm trên mặt cát mịn. Rồi nhìn từng con sóng nhỏ, như vô tình,  ùa vào xoá tan những dấu vết vô nghĩa, và để lại sự phẳng lặng, thanh thản cho một ngày nhàn rỗi của cô nhỏ. Chiều dần xuống sau dẫy núi. Nắng chỉ còn là mầu vàng vọt, trải dài trên bãi biển của một chiều vắng người. Những chiếc ghế bố và dù che nắng, đang được đám người làm trong những khách sạn dọc bờ biển, xếp lại thành từng dẫy thật ngăn nắp. Tiếng trò chuyện, cười đùa của họ, lẫn với tiếng ghế gỗ xập lại nghe lách cách, vang vọng trong gió biển. Cô nhỏ với tay lấy đôi dép ở dưới chân. Đứng dậy và vén lại mái tóc. Như thường lệ, khi công việc thu dọn của những khách-sạn sắp xong là dấu hiệu đã đến giờ cô nhỏ phải về. Trễ một chập nữa sẽ có tiếng của chị bếp hay của bà ngoại vang vọng từ phía sau hiên nhà "Thu ơi, về rửa tay ăn cơm con."   Chiều miền biển trời xập tối cũng khá nhanh. Cô nhỏ xách đôi dép, thong thả đi về hướng căn nhà nằm giữa đám khách-sạn ở ven bờ. Thói quen mỗi ngày của cô nhỏ dường như chỉ có thế.  Sau buổi tan học chiều về, cô nhỏ thay chiếc áo dài bằng cái quần jean và chiếc ao thun cao cổ, hoặc cái sơ-mi và khoác bên ngoài chiếc áo dạ mỏng. "Chèn ơi ! mặc đồ chi mà giống con trai vậy con !" . Bà ngoại thường hay mắng yêu đứa cháu gái nhỏ yêu dấu của bà, và cười xuề xoà khi cô nhỏ xà vào lòng, hun lên đôi má rồi khoe bà chuyện học hành ở trường. Câu chuyện làm quà của cô nhỏ chỉ được chốc lát. Sau đó cô nhỏ xin phép bà ngoại để xuống bãi chơi, nhặt vỏ sò, vỏ ốc. Hoặc ngồi nhìn những sinh vật nhỏ bé tội nghiệp hoạt động trên bãi biển.

- Em có thấy mấy con dã tràng này làm một việc vô tích sự không ?

Cô nhỏ nhớ lại lời của gã thanh-niên nói về những con vật kiên nhẫn, cặm cụi xây đắp thành từng ụ cát bé tí xíu. Rồi chạy trốn khi sóng vào bờ, xoá lấp đi những gì vừa mới làm, mới tạo. Sau đó, đám sinh vật ngây ngô đó lại tiếp tục công việc lại từ đầu. Nhưng những cơn sóng vẫn tiếp tục phủ nhận sự lao động của giống vật bé nhỏ dễ thương ấy. Cô nhỏ vẫn thường thấy mấy con  dã tràng này, nhưng với sự nhận xét của gã thanh-niên, làm cô nhỏ chú ý hơn : 

- Sao chúng nó khờ thế ông nhỉ ?" Cô nhỏ thắc mắc.

- Vậy mà loài người còn ngu tệ hơn chúng nó nữa cơ !
Gã thanh-niên mỉm cười, nụ cười hiền lành, hơi khó hiểu.

-  Trong cuộc đời, những tai hoạ và cuối cùng là cái
   chết cũng giống như sóng biển. Nó sẽ đến, phải đến.
   Và đến một cách không ngờ. Chúng ta biết vậy, vẫn
   hiểu thế. Vậy mà lại còn gây thêm khổ đau vào
   đó, như chiến tranh chẳng hạn.

Gã thanh-niên nói một hơi như sợ ai ngắt lời. Cô nhỏ không hiểu nhiều về gã. Cả đến cái tên của gã, cho đến bây giờ, khi đã xa nhau, cô nhỏ cũng không biết nốt. Cô chỉ biết rằng cách đây một hai tháng. Gã thỉnh thoảng cuối tuần ghé ra Vũng-Tầu, thuê một căn phòng nhỏ ở khách-sạn kế bên nhà. "Để hưởng gió trời lành mạnh. Để thấy cái bao la của biển, của vũ-trụ, và sự nhỏ bé bất lực của chính mình. "Gã nói vậy. Những lời nói như hàm chứa một tâm sự buồn phiền, chịu đựng. Cô nhỏ tình cờ để ý đến gã từ cái hôm buổi chiều, ngồi học trong căn phòng nhỏ trên lầu. Nhìn xuống bãi, thấy gã một mình, hút thuốc ngồi trông ra biển. Cả ba, bốn buổi chiều liên tiếp như vậy. Dáng cao, gầy của gã ngồi đó làm cô nhỏ bỗng tò mò. Gã nửa có vẻ là dân sinh-viên, nửa là một công-chức. Vì với mái tóc hơi dài hợp với chữ điền của gã, vả lại "làm gì có thứ lính tráng lè phè đến thế !" Cô nhỏ tự nghĩ.  Thoạt đầu, cô nhỏ tưởng gã đương thất tình nên bỏ ra đây chơi cho khuây khoả. Độ vài tuần sau, khi cô nhỏ bất chợt gặp gã đi lễ ở nhà thờ chính toà trong thị-xã, và gã đã gợi chuyện làm quen khi gặp lại cô nhỏ; cũng buổi chiều hôm đó, đi dạo nhặt vỏ ốc phía ghềnh đá ở cuối bãi. Gã nói gã là ký-giả, mệt mỏi với những chuyến công tác xa, muốn tìm một nơi yên tĩnh, ngơi nghỉ.  Gã có lối nói chuyện rất cởi mở, vui tính – tuy đôi lúc có vẻ  như xa vắng – hay bàn về thơ phú.  Những bài thơ gã thường ngâm cô nhỏ không được biết đến. Cô nhỏ chỉ biết dăm bài thơ của Nguyễn  Khuyến, bà Huyện Thanh Quan, hay của Nguyễn Công Trứ… mà cô nhỏ học ở trường có thế thôi.

"Ngoài hai mươi tuổi yêu mười bẩy
tim tím ban chiều, tim tím mai"
    *

Gã hỏi cô nhỏ có thích đọc thơ văn. Gã hỏi, nhưng dường như đã không để ý câu trả lời của cô nhỏ. Gã nhìn xa xăm tận ngoài khơi. Làm như câu thơ gợi nhớ cho gã một kỷ niệm nào đó. Đôi mắt gã như chùng xuống, phảng phất buồn. Cô nhỏ không thấy mầu tím, chỉ thấy mầu nắng vàng loang loáng trên mặt sóng, trên vầng trán cao rộng của gã. "Rồi nhỏ sẽ thấy khi nào nhỏ biết yêu."  Gã chuyển lối xưng hô khi biết người con gái mới mười sáu tuổi.  "Tôi ấy à ?" gã trả lời cô nhỏ. "Dường như tôi biết yêu sớm lắm. Chừng mười sáu, mười bẩy gì đó. Yêu sớm chỉ khổ thôi. Chớ có vội nghe nhỏ ".  Lối  nói chuyện của gã , thỉnh thoảng, như là người anh cả nói với cô em út. Cô nhỏ ngượng ngùng khi nhớ đến mấy đứa bạn trêu chọc "nhỏ Thu có kép già bay ơi !". Cô nhỏ chống chế mãi, lũ bạn vẫn không tin. Riêng cô nhỏ, cô thích được nói chuyện với gã thanh-niên lạ lùng này. Gã không có thái độ rụt rè, lúng túng, hoặc hỏi những câu chẳng ăn nhậu vào đâu, như mấy tên con trai thường chận đầu hỏi chuyện với cô nhỏ. Thoạt đầu cô nhỏ còn e thẹn,  mắc cở. Riết rồi cô nhỏ thấy con trai cùng tuổi mình hay có những vụng về như nhau. Và sẵn có máu đùa nghịch, cô nhỏ trở thành bạo dạn, thỉnh thoảng trêu chọc lại, khiến vài tên con trai ấp úng được câu trước, câu sau rồi vội vàng biến mất.  "Gieo gió gặt bão, mày rồi sẽ ế chồng cho coi Thu à !" Mấy con bạn của cô nhỏ vẫn mắng mỏ, doạ như vậy.

&

Sáng chủ-nhật, sau khi đi lễ nhà thờ về, cô nhỏ lên lầu, thay đồ và ở luôn trên căn phòng. Không xuống bãi đi thơ thẩn như mọi khi. Hơn tháng nay, gã thanh-niên nọ cũng chẳng ra chơi. Trong lúc ở nhà thờ , cô nhỏ có ý tìm. Nhưng bóng dáng gã như ngoài khơi biển động, xa khuất mờ mịt. Không hiểu sao, cô nhỏ tìm thấy sự êm đềm, nhẹ nhàng qua lối nói chuyện, hỏi thăm ôn tồn, từ tốn của gã. Sống một mình quanh quẩn với bà ngoại và chị bếp, cô nhỏ không có những giây phút tró chuyện đầm ấm của một người khác phái.  Mồ côi cha mẹ sau ngày tết Mậu Thân. Cô nhỏ rời bỏ Gia-Định và ra ở với bà ngoại cũng đã gần bẩy năm. Tình thương của bà ngoại đối với đứa cháu gái duy nhất thật bao la, vì cô nhỏ có đôi mắt giống mẹ, to, hiền lành. "Má mà hiền như cục đất, vậy mà trời không có mắt để cháu bà phải mồ côi ! "Bà ngoại thoảng vẫn thường than với cô nhỏ như thế. "Chỉ vì hai cái danh từ chủ-nghĩa mà bao nhiêu oan khiên đã xẩy ra trên cái đất nước nhỏ bé tang thương này !" . Cô nhỏ nhớ đến lời của gã thanh-niên. Gã chỉ tay về phía bên kia bờ đại dương. "Ở bên đó, người ta đang sống và làm giầu cũng nhờ hai cái chủ-nghĩa phi nhân, phi lý ". Cô nhỏ không hiểu những gì gã nói đến. Chỉ mang máng ý thức rằng có lẽ, những điều gã nói là nguyên nhân đã gây ra sự bất hạnh cho cô nhỏ. Gã không mồ côi, nhưng lối sống cô đơn của gã làm cô nhỏ cảm thấy thân, gần  gũi.  Dạo này tin tức chiến sự mỗi ngày một nhiều, một căng thẳng. Cô nhỏ thấy bà ngoại của mình lo âu. Ở trường thầy cô cũng lo âu. Thế là đã mất Pleiku. Ban mê Thuộc cũng không còn. Đường về Nha-Trang đã bị cắt đứt. Tin tức từ đài phát-thanh loan báo từng giờ.  Có thể gã sẽ chẳng còn trở lại.  Cô nhỏ linh tính như vậy. Hôm cuối , trước khi về, tự nhiên gã trở nên trầm lặng. Trong cái trầm lặng ấy, dường như gã muốn nói lên một điều gì.  Thay vào đó, gã hát cho cô nhỏ, giọng ấm và dịu dàng :"Từ khi trăng là nguyệt, đèn thắp sáng trong tôi. Từ khi em là nguyệt, nghe trong tim bối rối …" (**).  Cô nhỏ như muốn khóc. Chiều hôm ấy, nắng mầu tím buồn lạ thường. Tiếng sóng biển rì rào như lời dỗ dành ngọt ngào. Hàng dừa gió thổi, lá rũ lao xao như thì thầm. Cô nhỏ quay đầu nhìn lại những dấu chân của hai người. Đại dương bỗng trở nên bao la, mênh mông. Cô nhỏ cảm thấy mình bé bỏng, tê dại. Như vỏ ốc nằm trơ vơ dưới cát. Trong giây phút, dấu chân in sẽ tan theo bọt sóng. Gã sẽ như con chim biển, tung cánh bay khuất về phía chân núi. Xa mãi tận cuối trời.  Lúc ra về, gã cầm tay, nhìn sâu vào đáy mắt cô nhỏ. Bàn tay gầy ngón dài, xạm nắng của gã ấm áp, xiết nhẹ nhàng :

- Mai tôi phải về. Không biết có còn được trở lại. Dù sao, cũng xin cám ơn nhỏ.  Tôi mới có cái mới có, mai vẫn còn là mới có. Mốt nọ qua đi sẽ là kỷ-niệm, một kỷ-niệm  tôi sẽ mang theo và sẽ không quên nhỏ với phố biển này.

Gã chỉ nói bấy nhiêu, rồi quay gót bước đi.

&

Trong lúc ngồi chờ ở văn phòng tìm việc, đợi cho đến phiên mình được gọi vào phỏng vấn. Thu giở tờ báo Việt ngữ nàng đem theo để đọc giết thì giờ. Thất nghiệp đã gần một tháng, hôm nay là ngày đầu Thu ló ra khỏi nhà, thực sự đi kiếm việc. Hai tuần lễ đầu, sau khi hãng bị đóng cửa vì phá sản, Thu coi như đó là dịp để nàng được "nghỉ hè" một cách bất đắc dĩ.  Làm việc đã hơn bốn năm, chưa bao giờ nàng được khoảng thời gian nghỉ ngơi, rảnh rỗi nhiều đến như thế. Hồi tưởng lại, nàng cũng ngạc nhiên, thắc mắc là tại sao mình lại có thể làm việc một cách "hồ hỡi" đến như vậy. Ngày làm tám tiếng, chưa kể giờ phụ trội mỗi ngày, và nhiều khi cả cuối tuần. Hoạ hoằn lắm, nàng mới xin nghỉ một, hai ngày vì những bệnh cảm cúm lặt vặt. Hoặc những hôm được thư nhà, Thu như người bị ốm nặng. Tin vui thì ít, buồn lại nhiều. "Ngoại dạo này mắt kém hẳn đi. Không còn nhận ra hình của cô gởi về nữa. Vẫn nhắc và cầu xin trời phật phù hộ cô luôn”. Thư của chị Tư, người bếp giúp việc trung-thành cho bà ngoại từ ngày Thu còn bé, mới đây đã gởi cho nàng hay.  Như trăm ngàn lá thư khác mà Thu vẫn được nghe người quen trong sở kể lại. Thư nào cũng đầy sự áp bức, thống khổ, nhẫn nhục. Ngày gởi nàng cho gia đình một chủ thuyền quen biết. Thu khóc hết nước mắt, không chịu đi. Nhưng bà ngoại của nàng đã cương quyết : "Đời con còn dài, con cần phải sống. Ngoại già rồi, mồ mả ông bà , con cái còn ở đây , ngoại ở lại để chống mắt xem chúng nó làm được gì ngoại !". Qua đây chẳng bao lâu, Thu được thư của chị Tư, cho hay rằng bọn ba mươi tố cáo bà ngoại là mẹ của sĩ-quan nguỵ, mặc dù ngày xưa chồng đã theo Việt Minh chống Pháp, ngoại vẫn bị tịch thu hộ khẩu, đuổi chị Tư về quê, không cho phép bà có người giúp đỡ săn sóc. "Để diệt trừ đầu óc tư-sản, phong kiến …". Không còn hộ khẩu, bà ngoại của nàng phải bán căn nhà, theo chị Tư về quê của chị ở tận Vĩnh Long, có rau ăn rau, có cháo ăn cháo; nương tựa lẫn vào nhau. Bây giờ, nguồn lợi tức của hai người là những thùng quà do Thu gởi về. Vì chị Tư dẫu có buôn bán cũng chẳng đủ nuôi một người, huống gì còn phải lo thêm bà ngoại và mấy đứa con dại mồ côi cha của chị.  Thu đã không bỏ một cơ hội nào mỗi khi được hỏi làm thêm giờ phụ trội. Để có tiền gởi dư thêm chút đỉnh cho chị Tư, đã thay mặt nàng chăm sóc bà ngoại ; dặn chị gắng giúp đỡ bà con lốí xóm miếng cơm, viên thuốc cho những ai cần đến. Riêng nàng, Thu làm không biết mệt. Ngày hai buổi, sáng đi chiều về, nàng sống như cái bóng trong căn phòng nhỏ cô đơn ở giữa cảnh nhộn nhịp gần khu đại-học Long Beach. Hai mươi bốn tuổi. Một phần tư thế-kỷ. Nếu đem so sánh giữa hai khoảng thời gian thì thời gian chả khác là bao, nhưng Thu cảm thấy nàng như già đi trước tuổi.  Cuộc sống không còn mang một ý nghĩa gì đối với nàng. Mỗi ngày, Thu mỗi thấy cuộc đời đầy sự bất hạnh, phi lý. Tuổi ấu thơ của nàng, vì là con một nên Thu không có những kỷ-niệm đùa nghịch với anh chị em như các đứa bạn khác cùng trang lứa. Thu lại thiếu thốn cả tình thương gia đình khi cha mẹ nàng mất sớm. Ở với bà ngoại chẳng được bao lâu, chưa bám víu lâu dài với cái yêu thương cuối cùng của nàng. Rồi phải chia lìa, ly tán. Trên con đường ly-hương, những gì trong trắng, quí giá nhất của đời người con gái cũng đã bị cướp mất một cách phũ phàng bởi bọn giặc biển Thái man rợ. Giữa cảnh trời nước mênh mông, bao la vô tận. Nàng tủi nhục và cảm thấy thân phận con người thật hèn mọn. Sự vô tình hay thử thách của đấng tối cao đã vượt khỏi sức chịu đựng của nàng. Lúc ấy, Thu chỉ còn nghĩ đến cái chết. Nhưng mọi người trên chuyến tầu đã khuyên lơn, can gián. Không phải chỉ riêng nàng chịu sự bất hạnh. Một người cha, vì quá phẫn uất trước cảnh đứa con gái của mình bị đánh đập, vùi dập một cách tàn bạo.  Xông vào can thiệp để lãnh những nhát búa chí tử và bị vất xuống biển. Đám đàn ông, thanh-niên còn lại đứng khép nép, yếu hèn không một phản ứng. Mấy năm sống dưới thiên-đường chủ-nghĩa đã biến đổi con người của họ trở thành tiêu-cực, vị kỷ. Qua đến vùng trời tự do, họ hội nhập đời sống mới một cách dễ dàng. Quên ngay những gì đã và đang xẩy ra trên mảnh đất đau thương mà họ phải lìa xa.  Nhiều khi Thu thắc mắc, phải chi nếu nàng còn ở lại ? Cuộc đời nàng sẽ đi về đâu. Và bây giờ, trên xứ người, nó sẽ đưa nàng về hướng nào ? Thu cảm thấy hình như nàng đã không có sự lựa chọn. Định mệnh nàng như đã được ai xếp đặt, chỉ định từ kiếp nào. Những lúc tưởng rằng nàng làm chủ lấy cuộc đời mình, nhưng thực ra hình như nàng chỉ được tự do trong cái phạm vi nhỏ bé nào đó đã được cho phép. Như diễn-viên đôi lúc đã "cương" vì lỡ quên vở tuồng, mà đoạn kết đã được soạn sẵn. Thu sống như để chờ đợi, chờ đợi cho tấn tuồng của đời nàng sẽ được tiếp diễn không biết bao giờ mới được kết thúc.

&

Thu không ngờ rằng quả đất tròn và quá nhỏ để có thể cho nàng gặp lại gã. Hôm ngồi chờ đợi ở sở tìm việc, đang nghĩ ngợi miên man. Thu chợt giật mình khi nghe tên mình được gọi. Giọng phát âm hoàn toàn Việt Nam, nghe rất quen thuộc. Và người gọi tên nàng cũng ngạc nhiên không kém khi thấy Thu tiến đến gần :

    - Ủa ! té ra  cô…


Gã bỏ lửng cuối câu. Có lẽ định gọi nàng là "cô nhỏ" mà ngày xưa gã vẫn hay dùng. Bây giờ cô nhỏ của gã đã là một thiếu nữ. Hoàn cảnh cũng xa lạ khiến gã hơi khựng lại. Đối với Thu, tất cả những gì tưởng chừng như đã vùi sâu trong quá khứ, đã chết tự ngàn đời, bỗng sống động như một buổi nắng hè dậy trễ, mở cánh cửa sổ để nắng lùa vào trong căn phòng vẫn từng trống vắng. khép kín, âm u. Thu tưởng như mình đang bước vào cái nắng chan hoà, ấm áp mà nàng đã quên bẵng đi từ bao năm. Thu thấy lòng mình giao động lẫn chút vui mừng. Nàng đang ngập ngừng, lúng túng thì gã đã lịch sự mời vào bàn giấy làm việc của gã và tự giới thiệu :

    - À quên, xin lỗi cô Thu, tôi là Nguyễn Ngọc Đông. Cô cứ
   gọi tên Đông cúng cơm của tôi là đủ. Không ngờ gặp lại
  nhau ở đây. Thế mới biết trái đất này quả chật hẹp cô Thu nhỉ !

Lối nói chuyện của gã vẫn vậy. Vẫn có vẻ như một chút gì thân mật, dịu dàng đối với nàng. Hình ảnh những buổi chiều êm đềm ngày xưa như tuần tự chiếu lại trong trí nhớ. Gã là cả một bầu trời kỷ-niệm tưởng như đã mất  của Thu.  Cái thế giới của tuổi dậy thì và những xao xuyến thầm kín đầu đời đã không còn, nhưng khoảng thời gian dịu ngọt ấy vẫn ẩn chìm, tồn tại trong trí não nàng.  Khoảng cách ngày xưa giữa Thu và gã như gần lại.  Đàn ông đến một tuổi nào đó, hình như họ thôi già. Tám, chín năm rồi mà gã vẫn không thấy gì là thay đổi. Áo quần tuy không còn vẻ lãng tử như ngày trước, nhưng gã vẫn có vẻ gầy. "Ở cái xứ của ăn dư thừa mà. cô Thu xem, tôi chỉ lên được năm, sáu cân từ ngày sang Mỹ đến giờ ! có lẽ tại trong máu có quá nhiều nước mắm thành ra vẫn chưa quen được đồ ăn ở đây ". Gã đùa.

Ngày hôm đó, vấn đề tìm việc làm của Thu bỗng trở thành phụ thuộc. Nếu không muốn nói là chút nữa cả hai đã lãng khuấy, quên lửng.  Bao nhiêu kỷ-niệm đã được chia sẻ. Thời gian tám năm cũng đủ để có nhiều sự thay đổi cho hai người có dịp được tìm hiểu. Những lần gặp gỡ kế tiếp, sau giờ tan sở, gã thường đưa nàng đến ăn ở một vài hàng quán Việt Nam mà Thu chưa hề ghé chân. Thế giới ngày trước của nàng chỉ vỏn vẹn từ sở về nhà, cuối tuần thỉnh thoảng từ nhà đến chợ, mua vài món Á Đông lặt vặt. Năm thì mười hoạ, nàng ghé thương-xá mua một vài món cần thiết. Đời sống mà mấy người trong sở gọi là đời sống của kẻ ẩn tu, không màng. Bây giờ kẻ "ẩn tu" đã xuống núi, bắt đầu hội nhập vào mùa xuân đang đua nở, vào đầu mùa hè của cái nắng Cali còn dịu dàng. Gã một lần bảo : "Trông Thu cứ như cán ngố về thành. Thế từ hồi sang đây đã làm những gì? đi những đâu?" . Gã hỏi như đùa nghịch, trêu chọc. Dường như gã là khách quen của mấy tiệm. Nhiều người trong quán biết gã, thỉnh thoảng gặp họ vỗ vai, trò chuyện thân mật. Thu hỏi :

    - Bộ anh Đông không có ai nấu ăn cho hay sao mà rành mấy tiệm này quá vậy ?

Gã cười, giơ mấy ngón tay :
    - Này nhé. Vừa độc thân, vừa lười, vừa không biết nấu ăn.
     Lại chẳng có ma nào chịu mời mình. Thế chẳng đủ tiêu
     chuẩn để đi ăn tiệm hở cô nhỏ ?

Hai tiếng cô nhỏ gã tình cờ nhắc lại, tự dưng mang một thoáng hạnh phúc nào đó  đến với Thu. Hôm ấy, chưa bao giờ nàng được ăn một bữa cơm ngon đến vậy. Xong bữa chiều, gã lái xe đưa Thu đến con đường chạy dọc theo bờ biển. Có lúc gã ngừng lại, đậu xe ở bên đường và rủ nàng bách bộ xuống bãi. Gã kể, những ngày mới đến, hầu như chiều nào gã cũng đón xe buýt ra ngồi lặng hàng giờ, nhìn ra đại dương nhớ về phía bên kia là quê nhà, đất nước.  Nhưng mỗi ngày, nỗi nhớ không còn là một động lực để cho gã hy vọng ngày trở về. Nhớ nhà, yêu nước mà không có hành động cụ thể thì sớm muộn, nỗi nhớ đó sẽ tàn lụn bởi những bận rộn mới, lo âu mới.  Ban đầu cũng có những phong trào, đảng phái tổ chức đòi quyền tự do cho Việt Nam. Gã cũng đã tham gia. Nhưng vì quyền lợi, ganh tị và chia rẽ mà các đoàn thể từ từ rã ngũ. Gã cho rằng gã thuộc vào cái giới như gái lỡ thời. "Bây giờ ngày hai buổi cắp ô đi, về và chờ ngày … hưư trí. Hoạ may lúc đó có bà già nào cũng lỡ thời, lỡ vận chịu đèn rủ nhau vào viện… dưỡng lão cho đời đỡ cô tịch !"   Thu không ngờ gã cũng thích hoạt động chính-trị. Nàng vẫn tưởng mẫu người như gã thuộc tuýp lãng mạn, nghệ sĩ hơn là một chính-trị gia. Thu hỏi gã vẫn có còn làm thơ, văn như ngày xưa. Gã nhìn nàng có vẻ ngạc nhiên :
    - Thu còn nhớ ba cái chuyện lẩm cẩm đó hả. Tôi giờ thì chịu. Đã lâu lắm chẳng nghĩ đến thơ với thẩn.   Đầu óc bây giờ không được như ngày xưa. Có  lẽ đời sống không còn ý nghĩa nào nữa ngoài cái việc  đi làm, để  ăn, để ngủ và để chờ ngày … xuống lỗ !

Câu nói đùa nhưng giọng nói có vẻ một chút chán ngán, buông xuôi. Thu hiểu ý gã muốn nói. Vì đôi lúc nàng cũng có cái tâm trạng yếm thế như gã. Đang moi móc trí nhớ để tìm lại trong trướng hợp nào mới đây mà nàng cũng có cái ý tưởng như vậy. Tiếng gã hỏi đưa nàng trở về với thực tại :


    - Vậy chứ Thu còn nhớ bài thơ nào không đọc cho tôi nghe ?

Nàng hơi ngập ngừng, nhưng thấy nét mặt gã có vẻ như khẩn khoản, thành thực. Nàng nhắc lại hai câu thơ liên-hệ đến cái mầu tím của buổi chiều mà gã đã gieo vào cái trí óc ngây thơ của ngày nàng mới lớn. Làm sao Thu có thể quên được những rung động, nhung nhớ đầu đời của nàng. Những buổi chiều, những mẫu chuyện ngày xưa êm đềm còn ghi mãi trong đầu. Nhiều lúc Thu tưởng như mới vừa xẩy ra ngay hôm qua, tuần trước… "Có những cái bây giờ là hiện tại, mai chỉ là mới qua. Tôi mới có cái mới có, mai vẫn còn là mới có. Mốt nọ xa nhau sẽ là kỷ-niệm …".  Thu hình dung lại cái khuôn mặt và cái nhìn của gã khi gã nói câu đó. Nàng nhớ là sau đó nàng đã không dám nhìn thẳng vào đôi mắt trầm ngâm đen ấy. Lắm lúc nàng nghĩ bụng rằng tại sao mình lại phải khổ tâm với một kẻ lữ hành, một chuyến xe xa lạ ngang qua nhà như gã. Gã có vẻ xúc động  khi nghe Thu nhắc lại chuyện cũ. Chừng như suy nghĩ điều gì, gã ngồi lặng yên không nói. Một chập sau, gã mới thong thả quay lại nhìn, cầm lấy bàn tay nhỏ bé của Thu. Mân mê những ngón tay đang rung động nhẹ nhàng, rồi bằng một giọng từ tốn, êm ái gã nói :

    - Có lẽ tôi đã làm Thu ngày xưa bận tâm lắm phải không ?

Thu trả lời, bảo : "Anh ngày xưa sao mà ác độc. Đi biệt không đến một chữ hỏi thăm !".
 
Vẫn cầm lấy tay nàng, gã phân trần ngày đó, đối với gã, Thu như một ngôi thánh-đường nhỏ bé, là những gì thánh-thiện cao quí mà con người như gã không có quyền lại gần. Nói chi được ngự-trị trong cái vương cung, ngà ngọc ấy. Sau này, trong những năm xa cách, gã thỉnh thoảng vẫn nhớ đến nàng. Hình dáng, nụ cười của nàng như khắc sâu trong tâm khảm gã.

     -...vả lại, thời gian đó tôi đang chán nản trốn tránh cuộc đời, trốn tránh sự thật. Lúc nhớ đến Thu thì  đất nước đã mất, tôi cũng chẳng biết địa chỉ…

Trong lúc gã như đang thôi miên trở về với quá khứ. Thu ngồi lặng nhìn ra biển buồn bã. Thánh đường, cung ngọc của gã đã chìm sâu ngoài ấy, tất cả chỉ còn lại những đổ vỡ, đau đớn trong lòng nàng. Thu băn khoăn không biết rằng mình có can đảm để nói lên sự thật. Lịêu gã có sự chịu đựng như những con dã tràng, kiên nhẫn làm lại những gì sóng gió đã cuốn trôi mất ? Rồi hai người sẽ như thế nào ? bao nhiêu câu hỏi như nhẩy múa trong đầu nàng. Câu trả lời nằm mãi tận cuối trời, cuối đời người. Trước mắt nàng bây giờ, Thu thấy chỉ còn là mầu tim tím của một buổi chiều sắp tàn.


* thơ Cung Tích Biền
** Trịnh Công Sơn

SVT 1988





                                                   KHOẢNG CÁCH.






Đến cùng với mùa xuân là những trận bão mưa phùn, gió bấc. Thành phố Portland của vùng Tây Bắc, đang lúc sương mù buốt giá phủ kín mấy tuần lễ, bỗng thay đổi khí hậu một cách thình lình, bất ngờ.  Từ cái lạnh cóng của những ngày tuyết rơi mỏng manh, một buổi sáng thức dậy đã trở thành ướt át, mưa dầm dề, chỉ còn hơi gây gây lạnh.  Ngày mới dọn đến tiểu bang này vào một độ cuối hè, Đông đã thấy cảnh đồi núi với thông xanh và hồ nước gợi nhớ về Đà Lạt khôn xiết.  Trước khi rời Salt Lake, có người đã “hù” là ở đây hay mưa, buồn lắm. Đông từng sống ở Đà Lạt hơn một năm, quen quá với cái lạnh mưa phùn có khi kéo dài cả tuần lễ của miền cao nguyên. Vả lại, thà  mưa còn hơn mỗi sáng phải dậy sớm để cào tuyết như mùa đông ở Utah. Đường phố trở thành băng đá, đi bộ xẩy một chút là quơ quào, té ê mông, có khi lọi tay, trật chân bó bột phải hai, ba tháng.  Mưa phùn hạt nhỏ đi thong dong dưới những hàng cây bóng lá kể ra còn thú vị, lãng mạn hơn là co dúm người, bước những bước vội vã giữa trời đông tuyết rơi trắng xoá, chỉ mong lè lẹ tới để chui vào nơi có máy sưởi ấm áp.
     Vậy mà năm ngoái có một lần trời mưa, mưa thật nhẹ. Chẳng nhớ tại sao Đông đã hối hả rời lớp học, chạy cái ào qua thư-viện của trường đại-học Oregon để đâm sầm, ngã bổ vào người cô nhỏ đang đứng trú mưa dưới mái hiên. Lúc đỡ cô nhỏ dậy, nhìn mái tóc đen nhánh với khuôn mặt bầu bĩnh, xinh như búp bê Nhật Bản, Đông vội vàng xin lỗi rối rít bằng Anh-ngữ vì sự vụng về của mình. Vừa sắp xếp lại mấy quyển sách mượn của thư-viện, cô nhỏ vừa lắc đầu bảo không sao cả. Rồi như thấy sự áy náy, lo âu của Đông hiện trên khuôn mặt, cô nhỏ nhoẻn miệng mĩm cười để lộ chiếc răng khểnh dễ thương, bắt chuyện:

- Are you Vietnamese?    

Đông gật đầu:
- …  and you ?

- Same here !

Xong câu nói đó, cô nhỏ và Đông đều bật cười. Không ngờ cô nhỏ cũng vừa chuyển trường mới đến đây.  Đông hỏi vài câu bâng quơ làm quen. Cô nhỏ thật dạn, trả lời chẳng chút ngập ngừng. Đông bảo âu đây cũng là duyên hội ngộ, bèn mời cô nhỏ ghé ngang cafeteria để trò chuyện, đền bù cái tội đã té vào người cô nhỏ. Gật đầu bằng lòng, nhưng cô nhỏ vẫn ném một cái nhìn tinh quái, nửa đùa nửa thật :

- Hay là lúc nẫy ông đóng kịch giả vờ như thế để kiếm chuyện mời người ta ?

- Thí dụ nếu quả vậy thì đã sao ? Đông ưỡm ờ, đùa hỏi lại.

- Chả sao cả. Không ngờ mặt mũi ông trông hiền lành mà có lối làm quen bạo quá !

- Cô sợ à ?

- Khỏi. Nếu sợ đã chẳng nhận lời đi uống café v
i ông.

Giọng cô nhỏ chắc nịch, Đông nghe thật dễ thương, nhưng đoán cô nhỏ cũng có thể rất bướng bỉnh, bơ đời. Cô nhỏ làm Đông chợt nghĩ đến Thuý-Hà ngày xưa của Đông. Năm đó Đông mười chín, Thuý-Hà kém Đông ba tuổi. Nhưng vì vẻ mặt ngây thơ, non choẹt lẫn với dáng bé nhỏ của nàng, Đông thường lấy lời nhạc phổ thơ Nguyên Sa trêu ghẹo :… trời hôm ấy mười lăm hay mười sáu, tuổi của nàng tôi nhớ chỉ mười ba…”.  Cô nhỏ có cái nét hao hao giống, chỉ khác một điều là Thuý-Hà tránh đám đông, nhát và hiền như thỏ. Hởi tí sa nước mắt. Cô nhỏ lại thích hội họp để văn-nghệ, đàn hát. Sau này, thỉnh thoảng cô nhỏ rủ Đông ghé nhà người quen tổ chức ca nhạc, thi phú suốt đêm. Đông thường bận bịu sách vở lẫn công việc nhà, tuy vậy Đông cũng vài lần ghe đến tham dự, và tình cờ ở đó, Đông đã nghe được một giọng hát người nữ ca-sĩ của thành phố Portland, nổi tiếng như một hiện tượng Ý-Lan hoặc Thái Thanh thứ hai. Thái Thanh của thời vàng son, nhất là qua những bài Tình Ca, Tình Hoài Hương… hoặc Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng, và những bài đạo ca được nhiều người ưa chuộng. Lần đầu nghe nàng cất giọng hát, Đông cảm tưởng như một luồng điện chạy khắp cơ thể. Không ngờ lại có một giọng hát thật giống và điêu luyện quá thể.  Đông ngờ sẽ chẳng bao giờ còn được nghe giọng hát sống thực, mê hoặc như Thái Thanh ngày xưa Đông vẫn thường nghiện ngập, tưởng nhớ.  Chừng nghe xong bản nhạc, Đông cảm khái là vội hai câu thơ đề tặng người ca sĩ:

  Có lẽ thôi ta về đào mộ
  đem hồn chôn giọng hát tương-tư…

và nhờ cô nhỏ chuyền tay đưa hộ. Liếc sơ qua tờ giấy, cô nhỏ ngạc nhiên, tròn xoe mắt nhìn Đông:
- Úi cha ! không ngờ anh cũng biết làm thơ !

(Cô nhỏ xưng anh một cách ngọt sớt sau khi biết em gái của Đông cùng trạc tuổi và học chung nghành với cô nhỏ).

- Cũng chút đỉnh. Văn nghệ chơi thôi mà. Tại cô ấy hát hay quá làm tôi nổi hứng bất tử…

- Vậy thì anh nên đến chơi với bọn này thường xuyên đi. Biết đâu anh sẽ trở thành thi sĩ…

- Thi sĩ để làm gì hở nhỏ? Hơn nữa tôi bận hoài.

- Thiệt hông. Bận gì bận hoài vậy !

Cô nhỏ háy mắt, giọng bắt bẻ. Đông phì cười vì câu nói. Ai mà muốn bận để chẳng được gần cô nhỏ. Hình như trong câu nói của cô nhỏ hàm chứa một sự hờn dỗi. Đông nhớ tuần trước, trong phòng làm việc của cô nhỏ trên trường. Đông ghé tạt qua đưa mượn quyển sách để cô nhỏ chụp phóng ảnh (copy). Nói chuyện quanh quẩn một hồi, cô nhỏ chợt bảo dường như Đông muốn giữ một khoảng cách nào đó với cô nhỏ. Đông đứng nhìn trời mưa ngoài khung cửa mà nghe thoáng chút buồn. Muốn giải thích thật nhiều cho cô nhỏ, nhưng nghĩ sao, Đông chậm bước đến gần cô nhỏ đang đứng bên cạnh cái máy Xerox. Thật gần như thể Đông sưả soạn vòng tay ôm, cúi xuống hôn lên đôi môi ngửa nhìn của cô nhỏ. Cử chỉ bất ngờ và khựng lại của Đông làm cô nhỏ bối rối, lúng túng thấy rõ. Chừng đó Đông mới lui lại, mỉm cười ôn tồn:

- Vậy là nhỏ hiểu tại sao tôi muốn giữ tình cảm giữ tôi và nhỏ cần phải có một
  sự cách khoảng như thế?

Suy nghĩ thoáng chốc, cô nhỏ không trả lời. Chỉ cắn nhẹ môi rồi gật đầu.
*

      Tại sao mỗi lần mình gặp nhau trời lại mưa hở anh?” Đông bật nhớ, cô nhỏ thuờng hay có những thắc mắc tương tự và bất ngờ như thế.  Lắm lúc Đông đang phân vân, nhìn vào đáy mắt đen nhánh to tròn của cô nhỏ để tìm câu trả lời thi cô nhỏ đã chuyển sang câu chuyện khác, câu hỏi khác – như con chim én nhẩy từ cành này qua cành nọ một cách hồn nhiên, tíu tắt không ngừng. Nhưng lần này, ở cuối câu hỏi, giọng cô nhỏ như chùng xuống. Không còn vẻ tươi tắn, nghịch ngợm. Không còn vẻ muốn thay đổi đề tài. Nhìn dáng cúi đầu và cánh tay vân vê chiếc nón đi lặng lẽ bên cạnh, Đông biết cô nhỏ chớm buồn.  Vài tháng nữa sau khoá học, cô nhỏ sẽ rời bỏ thành phố này để về sống với gia đình, với người mẹ già và đám em nhỏ dại đang cần bàn tay chăm sóc.  Đông hỏi cô nhỏ có biết chuyện Ngưu Lang – Chức Nữ.  Cô nhỏ khẽ gật đầu, ngước nhìn ánh mắt long lanh:

-“ Ở đây mà cũng có mưa Ngâu, ngộ ghê anh nhỉ.”. 

Cô nhỏ lại thắc mắc. Một tánh thắc mắc dễ thương không đòi hỏi bất cứ lời giải đáp nào cả. Bởi vì cô nhỏ đã thắc mắc, đã hiểu về một khoảng cách vô hình giữa Đông và cô nhỏ mà cả hai không nên với tới.  Cứ giữ nguyên như vậy, Cứ để yên như thế. Để nhỡ mai sau khi mùa xuân đến, con chim én sẽ yên lòng rời bỏ cành khô mà bay đi tìm hạnh phúc. Bây giờ mùa xuân đang đến. Cô nhỏ bảo rằng năm nay cô nhỏ sẽ lấy chồng. Sẽ về ở gần với gia đình, tìm việc làm ở một viện nghiên-cứu nào đó.  Nghĩa là cô nhỏ sẽ yên thân. Như con chim thôi còn bay nhẩy. Chim tìm tổ ấm. “Giấc mơ con gái bình thường quá phải không anh?”  Giọng cô nhỏ đượm sầu khiến Đông cũng chẳng biết trả lời sao. Đông nghĩ mình không còn là mùa xuân để vỗ về cô nhỏ. Đông cũng không có quyền xây dựng một mùa xuân giả tạo để an ủi cô nhỏ.  Nhưng Đông muốn cô nhỏ nhớ mãi những lần gặp gỡ trong mưa (như cô nhỏ thường bảo) để ít nhiều gì mai sau, nó sẽ trở thành một chút gia tài, một chút kỷ niệm. Kỷ niệm ngày còn là con gái với nhiều mộng ước lãng mạn. Đông nhớ trong cái tháng hay mưa nhất ở đây, hình như lại là tháng của ngày lễ Valentine, ngày tôn vinh tình yêu. Người Mỹ kể cũng buồn cười. Bởi tâm hồn khô khan, thụ động như máy móc thành ra họ phải đặt một ngày lễ để nhớ nhau. Còn Đông, thỉnh thoảng Đông nhớ cô nhỏ một cách vô chừng. Đôi lúc Đông tự hỏi, không biết cái khoảng cách vô hình ấy như thế nào nhỉ? Nó có chút gì gọi là hương vị ? và sao lại phải có nó chứ ? Bắt chước cô nhỏ, thắc mắc đấy nhưng không cần câu giải đáp. Tuy vậy, Đông cũng cảm thấy khoảng cách ấy như hai giọt nước trong cơn mưa. Rơi song song với nhau chẳng bao giờ gần.  Giao điểm của chúng chỉ có thể ở mãi tận vô cực. Ở vào một thế giới khác. Chỉ tái hợp khi đã rơi xuống đất, vỡ tan, nhập vào giòng nước như cuộc đời trôi cuốn. Khoảng cách ấy, cũng có thể nó mỏng như tơ trời. Nhẹ nhàng nhưng xót xa, như làn khói quyện làm lắm lúc Đông cay mắt khi chợt nghĩ đến. Và Đông nghĩ, sẽ tan vào thời gian, sẽ chìm trong ký ức.

- Anh có thích bản “Nghìn trùng xa cách” không hở?

- Thích chứ.
Đông trả lời

- Tại sao lại… “chuyện đôi ta buồn ít hơn vui”?
cô nhỏ vẫn thích thắc mắc.

- Có lẽ tại tôi không đủ lãng mạn như Phạm Duy nên chưa thể hiểu được.

Đông trả lời và Đông biết rằng mình đã nói dối. Hy vọng thời gian sẽ làm cô nhỏ hiểu. Hiện tại chắc cô nhỏ cũng chưa cần câu giải đáp. Hình như cô nhỏ đang nghĩ ngợi gì đó. Đông thấy mắt cô nhỏ mở to nhìn về khoảng trống trước mắt.  Không biết rằng cô nhỏ đang nghĩ về mùa xuân sắp đến hay những cơn mưa như chiều nay buồn ảo não? (Đông tự hỏi và bỗng thấy mình bắt đầu có những “triệu chứng” ưa thắc mắc của cô nhỏ!).  Không biết cô nhỏ sẽ còn những thắc mắc bất ngờ, dễ thương như vậy sau khi lấy chồng? có còn thích được đi rong chơi dưới trời mưa phùn gió lạnh?  Thời gian xa cách sẽ trả lời. Thời gian ấy rồi cũng sẽ đến. Bây giờ Đông và cô nhỏ đang ngồi trong một chiếc quán cà phê ấm cúng, nhìn ngoài trời mưa rơi và đếm từng chiếc xe qua lại. Cả hai đều yên lặng. Không khí trong quán dường như cũng yên lặng. Yên lặng cho đến độ thỉnh thoảng Đông nghe tiếng thở dài. “Mình còn gặp nhau một lần nữa anh hở?  Chẳng nhìn cô nhỏ, Đông gật đầu. Đông nhận thấy rằng đã nói dối cô nhỏ thêm một lần nữa. Không sao. Đông nhũ thầm. Rồi cô nhỏ sẽ quên. Đông không muốn cô nhỏ hờn giận bây giờ mà quên là mùa xuân sẽ đến. Mùa xuân đang chờ đợi cô nhỏ. Còn Đông, nhìn ra ngoài khung cửa kính mờ hơi nước, Đông thấy ngày đã về chiều. Xe cộ bắt đầu túa ra từ các công sở, nối đuôi nhau dài ngút mắt trên xa lộ để về nhà. Đông nhìn đồng hồ thấy đã đến giờ phải đi đón thằng con trai ở vườn trẻ, đứa con gái nhỏ học ở trường. Công việc mỗi ngày của buổi chiều từ khi người vợ cũ đã bỏ đi. Cô nhỏ thấy Đông nhìn đồng hồ cũng chợt hiểu. Cô nhỏ đã không thắc mắc. Và hai người đứng lên chia tay.

SVT





NHỮNG MÙA XUÂN KHÔNG ĐẾN









              
Sau khi đảo một vòng quanh thư-viện và lướt mắt nhìn qua những tấm tranh sơn dầu treo rời rạc, xen kẽ ở bốn bức tường trắng ngả mầu. Người con gái dừng lại ở một góc cuối phòng , cũng chỗ cũ như chiều hôm trước. Tiến thấy nàng đứng chăm chú ngắm bức hoạ khu rừng xơ xác lá vàng có con suối nhỏ khô cạn. Mái tóc dài ngang vai che xoã nửa khuôn mặt dường như trái soan, khiến Tiến không thể đoán được tuổi tác hoặc nàng đang nghĩ gì. Sáng chủ-nhật thời tiết bắt đầu vào xuân. Nắng ấm đã trên cao ngọn cây. Phòng triển lãm của thư-viện Đà-Lạt chỉ lác đác vài người thưởng ngoạn. Ngoài Tiến và đôi nhân tình trẻ tuổi đương bá vai, bá cổ thì thầm to nhỏ , nàng là người thứ tư có mặt trong căn phòng cô động, tĩnh mịch thoang thoảng mùi giấy cũ, ẩm mốc. Lúc nàng bước vào, Tiến đang ngồi đọc sách sau cái bàn giấy to lớn ở một góc cửa. Khuất lấp bởi cái bảng gỗ giới thiệu chương-trình văn-hoá cuối tuần của thư-viện, đặt ngay giữa lối đi. Nàng hình như mải nhìn thẳng về phía trước nên có lẽ không trông thấy Tiến. Chàng đoán nàng mới từ nhà thờ tan lễ, trên đường về ghé ngang. Quyển thánh-kinh nhỏ bìa đen sờn gáy cầm trên tay và dáng nàng đứng xem tranh khiến Tiến cảm tưởng như một con chiên ngoan đạo đang tập trung tư-tưởng cầu nguyện.  Sau một chập thấy nàng vẫn đứng yên chỗ cũ. Tiến đứng dậy đi lại gần và cố tình nhấn mạnh gót giầy để nàng nghe và khỏi bị giật mình. Nàng bước hơi tránh sang một bên khi biết Tiến đến đứng cạnh. Đôi mắt vẫn không rời bức hoạ. Tiến tò mò muốn tìm hiểu những ý nghĩ trong đầu của người con gái lạ này. Chàng ngần ngừ đợi sau vài phút trôi qua, lúc nàng khẽ vén mái tóc loà xoà trước trán, Tiến mới nhẹ nhàng lên tiếng :



-Cô thích tấm tranh này.


-Vâng. Trông nó ngồ ngộ và buồn thế nào ấy !

-Tôi tưởng “ngồ ngộ” là dễ thương, kỳ lạ, hoặc vui. Sao lại có cả buồn trong đó ? Tiến hỏi.


-Ông có thấy mầu sắc và cảnh vật buồn thảm ? Ngồ ngộ là tại cái tựa đề của nó : “Bên kia rừng vào thu”. Thu phải là mùa thu hết chứ. Không lý “bên này” vẫn còn là mùa Hạ, mùa Xuân ?


-Cô có thể nói đúng. Tôi cũng nghĩ rằng tác giả cố ý muốn như thế …


-Ông nói có vẻ quả quyết, chắc ông là chủ nhân của bức tranh ?


-Vâng. Và nó sẽ là của riêng cô nếu cô muốn.


-Ông đùa ???..


-Không. Tôi chỉ đùa với mầu sắc trên khung vải thôi. Thấy cô đến chỉ ngắm bức hoạ này đã hai hôm nay, tôi đoán cô hẳn thích nó lắm.


-Ông cho tác phẩm của ông như thế, rồi lấy gì để sinh kế ?




Nàng không trả lời ngay câu nói của Tiến. Chỉ cắn nhẹ môi và ngập ngừng hỏi ngược lại. Chàng cười , đáp :



-Bán tranh không phải là nghề mưu sinh của tôi. Vả lại, tôi đã thở và đã sống trước khi có tấm tranh này cơ mà, cô không nhớ ?



Mặc dầu chàng nói như thế, nàng vẫn lễ phép cám ơn nhưng một mực từ chối không dám nhận. Tiến cũng chẳng cố ép. Rồi nàng lên tiếng ngỏ lời khen về một vài bức tranh của chàng, sau khi thành thật nói là nàng không hiểu nhiều gì hội-hoạ. Tuy nhiên, cách lựa chọn mầu sắc và lối bố cục cảnh vật  của Tiến đã ít nhiều gợi lên vài cảm nghĩ hoặc ấn-tượng rõ rệt (cho một người bình thường đi xem tranh như nàng chẳng hạn). Không như lối vẽ tranh lập thể, trừu tượng mà chỉ một số ít người rành về nghệ-thuật mới có thể hiểu nổi.



*





Hai người nói chuyện quanh quẩn về tranh ảnh được giây lát. Tiến thấy nàng kín đáo đưa tay nhìn đồng hồ. Chàng thoáng nhìn cánh tay trắng nuốt của nàng.  Trông giống  như của đứa trẻ vừa thôi sữa. Cổ tay nàng tròn đầy và những ngón búp măng dài thanh tao thật dễ thương. Tiến chợt vẽ trong đầu hình ảnh nàng cầm vài cành hoa marguerite đang từ giữa chừng dốc đi xuống. Sau lưng là dẫy đồi cây xanh và mây trời bao la, mênh mông. Miệng nàng hơi nhoẻn cười nhưng ánh mắt như ẩn khuất một nỗi sầu, xa vắng. Tiến phân vân, chẳng hiểu nguyên do nào đã khiến chàng có sự tưởng-tượng ấy. Và nó mang một ý nghĩa hay sự liên-hệ gì giữa câu chuyện tầm thường của hai người. Trong lúc đang trầm tư, nghĩ ngợi. Tiến loáng thoáng nghe dường như nàng xin phép phải về để phụ lo chợ búa, cơm nước cho gia đình. Chàng trả lời tiễn chân một cách lơ đãng, rồi đứng tựa bên khung cửa sổ, nhìn dáng nàng trong tà áo dài trắng với mầu tím của chiếc áo len dần khuất sau rặng thông già cao ngất bên con đường dẫn xuống cầu ông Đạo ở đầu bờ hồ. Tiến đứng đó mơ màng nhớ lại một vài câu chuyện đối thoại với nàng và bức tranh chàng vừa mới tưởng tượng hồi nẫy. Chàng cố moi móc, so sánh những mầu sắc để có thể hoà hợp với cảnh vật và đồng thời đem đến một chủ đề nào đó cho bức hoạ trong trí tưởng. Tiến không nhớ rằng chàng đứng như thế đã bao lâu. Chừng tiếng chuông nhà thờ vang đổ báo hiệu mười hai giờ trưa. Lúc đó, Tiến mới choàng mình sực nhớ rằng người con gái ra về tự bao giờ. Chàng quên khuấy chưa hề hỏi tên hoặc tìm hiểu một tí gì về người con gái dáng yếu đuối,  mảnh khảnh mặc áo  len tím có đôi mắt ngây thơ buồn lạ lùng ấy. Tiến thoáng nghĩ về sự gặp gỡ vừa rồi giống như chuyện liêu-trai chí dị ngày xưa chàng vẫn thường mê đọc.  Tiến tự nhủ rằng đây không phải là mộng. Người con gái chàng mới gặp có thực  và hiện hữu. Hương thơm và mùi tóc của nàng vẫn còn thoang thoảng ở chỗ chàng đang đứng. Tiếng nói của nàng vẫn còn âm vang trong trí nhớ, trong đầu óc chàng. Nhất là đôi mắt và nụ cười buồn, duyên dáng. Tiến bỗng cảm tưởng như vừa đánh mất, hay để quên một vật gì quý giá mà chàng đã khổ công tìm kiếm, giữ gìn bấy lâu nay. Tiến thầm hy vọng rằng nàng sẽ ghé qua một lần nữa. Dù là hy vọng monh manh, thành khẩn. Hết tuần này Tiến xuống Saigòn, đem theo một số tranh để cùng vài hoạ-sĩ trẻ tuổi khác, dự cuộc triển-lãm ở viện đại-học Minh-Đức. Rồi chàng sẽ trở lại Đà-Lạt, sẽ bồn chồn mong đợi trên suốt chuyến xe đó hành trình gần tám tiếng đồng hồ – nếu từ bây giờ đến ngày đó chàng vẫn không tìm biết được về người con gái chàng mới gặp chưa quen ấy.  Hiện tại, Tiến đang mang trong lòng lẫn lộn cái buồn và vui lâng lâng một cách khó tả. Nhìn quanh thấy mọi người đã rời khỏi phòng. Chàng đóng kín và khoá trái cửa, đoạn rảo bước xuống con dốc đi về hướng khu chợ Hoà-Bình. Định bụng sẽ gọi một tô phở lớn vì Tiến cảm thấy khá đói bụng. Từ sáng đến giờ, chàng chỉ có mỗi ly café, không hẳn là ly đầy, chỉ là một ly “đờ-mi” ở quán Domino trên con đường Phan Bội Châu , uống để ấm bụng, để buổi sáng đỡ nhạt miệng có thế thôi. Vừa đi, Tiến  vừa cố hình dung lại khuôn mặt người con gái mặc chiếc áo len tím. Chàng không tài nào nhớ nguyên vẹn được hình ảnh của nàng. Chỉ vài điểm trong trí nhớ chàng đã ghi nhận một cách mường tượng, rời rạc. Như hàm răng nhỏ trắng đều. Mái tóc dài óng ánh. Nụ cười đôn hậu. Ánh mắt thoáng buồn.  Câu nói thường thường bắt đầu với chữ “vâng”, “dạ”… Mới đó mà Tiến chợt thấy mong nhớ nàng một cách rất lạ. Tiến tưởng sau cuộc tình tan vỡ từ năm năm về trước, tâm hồn chàng đã trở thành tê dại, nguội lạnh – sẽ chẳng còn sự rung động, ray rứt như thưở bồng bột , mới lớn. Đôi khi Tiến cũng có những cảm xúc nhẹ nhàng thoảng qua để chàng hứng thú ghi lại trên khung vải. Hay chỉ là sản phẩm của trí tưởng cho cuộc sống thêm chút ý nghĩa và tâm hồn chàng đỡ phải khô cạn. Nhưng bây giờ, những cảm giác ấy sống thực, rõ rệt và lan man trong mạch máu, trong tim phổi khiến Tiến thấy dường như nắng trưa nay nắng ấm hơn mọi khi. Đường phố bỗng nhộn nhịp người và vui hơn mọi bữa. Tiến hiểu chàng yêu đời chỉ vì hình ảnh của người con gái dịu hiền đến trong buổi sáng chủ-nhật mà chàng vẫn nghĩ chỉ là một ngày bình thường như mọi ngày đã trôi qua trong đời. Lúc đứng trên thang cấp trước cửa lò bành mì Vĩnh-Chấn, nhìn sang bên kia đường khu rạp hát Hoà-Bình, Tiến nhớ đến câu nói đùa của người bạn, anh chàng dân địa-phương ở đây : “Tớ cam đoan, nếu bạn chịu khó đừng trước cửa rạp và đếm người qua lại cái công trường này độ chừng hai, ba ngày. Bạn có thể tự hào rằng đã biết mặt dân ở đây hết ba phần tư rồi đấy !”. Câu nói có tính cách như để diễn tả cái thị-xã nhỏ bé, gần gũi hơn là để chế diễu. Tiến quan niệm như thế và chàng nhận ra rằng niềm hy vọng gặp lại nàng mỗi lúc một lớn dần theo sự tưởng tượng của chàng. Tiến biết chàng có hơi chút lạc quan để tự tạo cho riêng mình một niềm an ủi vui nho nhỏ. Thế cũng chẳng có gì quá đáng. Tiến thầm nhủ. Đau khổ và hạnh phúc chỉ là phương diện tình cảm đã được diễn dịch, thúc đẩy bởi tri-thức. Nếu Tiến chẳng mảy may để ý về sự hiện diện của nàng sáng nay ở phòng triển-lãm, hoặc biết nhưng lại không màng một tí gì về nàng thì mọi việc đã khác hẳn, tâm hồn chàng đã không phải bận rộn đến thế.



Trước khi băng qua đường, Tiến đứng ngó quanh quất. Chàng nhìn những khuôn mặt trầm lặng của người bộ hành. Những đôi má trắng hồng của mấy cô con gái xứ cao-nguyên, và một vài sinh viên sĩ-quan võ bị chững chạc , oai phong trong  bộ đồng phục, trông vẻ hớn hở vì cuối tuần được xả trại. Một cách tự kỷ, chàng cho rằng chưa chắc đám người này sẽ cảm thấy sung sướng, hạnh phúc bằng Tiến nếu họ trong một lúc tình cờ nào đó, gặp nàng ở ngoài phố. Đối với họ, nàng cũng chỉ như một cô gái bình thường giống như mọi người con gái khác quanh đây. Ngoại trừ điều duy nhất nếu đó là yêu của nàng. Nghĩ đến đấy lòng Tiến bỗng se thắt. Chàng vội tìm kiếm hình ảnh, ý tưởng khác để trấn an, khuất lấp cái điều buồn bã vừa mới chớm qua trong đầu. Rồi Tiến tự trách rằng sao chàng lại cho phép cái tư-tưởng phiêu-lưu một cách quá trớn khiến gây chi nhiều khổ sở. Tiến quay nhìn lại quãng đường chàng vừa đi qua. Con đường vẫn ngoan ngoãn nằm dưới hàng thông xanh, dưới mầu nắng vàng ngọt ấm của buổi trưa. Mọi người vẫn bình thản, tiếp tục với đời sống. Cách đó chỉ vài chục bước chàng còn đầy lạc quan, cám ơn cuộc đời nhiều bao dung, mầu nhiệm. Giờ chợt nghe trong lòng dâng lên một nỗi buồn vô cớ. Mặc dầu Tiến hiểu cái ý tưởng vừa mới xẩy ra chỉ là giả-thuyết , chưa hẳn rằng thật. Nhưng Tiến vẫn bâng quơ nghĩ đến những con đường ở trước mặt. Không biết con đường nào sẽ thực sự đưa chàng tìm thấy hạnh phúc. Suy ngẫm mãi. Tiến không còn câu trả lời hay một lối thoát nào cho cái điều nghi vấn, lẩn quẩn này. Ngoại trừ... Tiến lắc đầu, chàng cười như đã đùa với cái điên rồ vừa thoáng qua. Tiến nghĩ, ngoại trừ chàng chọn một giấc ngủ dài. Một giấc ngủ để quên đi nỗi nhớ và những khắc khoải của tri-thức, của cuộc đời thật mong manh.




Tuy trong lòng đang xẩy ra những khúc mắc của tình cảm như thế, Tiến vẫn yêu mến thành phố đồi thông sương trắng này như một người tình nhỏ bé, thân thiết. Chàng so sánh cái khung cảnh thơ mộng, thật yên tĩnh, êm đẹp của những ngày vứa qua với cái không khí bụi bậm, ồn ào nóng bức ở Saigòn. Cuộc đời chàng đáng lẽ thích hợp, gắn bó với nơi này mới phải. Tiến thầm cảm ơn người bạn đã chu đáo, thu xếp cho chàng cuộc triển-lãm ở trên đây. Nhờ đó chàng mới có dịp để biết về Đà-Lạt. Để gặp người con gái thật dịu hiền tựa giấc mộng. Một giấc mộng phù du như đám mây đang thong thả trôi vào lòng chàng. Tiến cảm thấy cái buồn vẩn vơ khi nẫy có lẽ cũng đã theo đám mây đó bay về cuối trời, và nghe sự thanh thản, bình yên trở lại với tâm hồn chàng một cách rất nhẹ. Tiến nhận ra rằng hãy cứ để cuộc đời tự-nhiên đến với chàng. Chấp nhận những gì chàng có ở hiện-tại. Rồi mai này Tiến sẽ không tiếc nuối gì về quá khứ. Vì quá khứ sẽ trở thành kỷ-niệm, như kỷ-niệm sự vô tình gặp gỡ người con gái áo len tím sáng nay. Kỷ-niệm ấy vui hay buồn, có ảnh hưởng sâu đậm vào tâm hồn chàng hay không, mai sau Tiến sẽ biết. Còn bây giờ, Tiến chỉ biết rằng chàng đang yêu cái thành phố lãng mạn này vô cùng.




***





               Mãi đến cuối tháng tám Tiến mới trở lại Đà-Lạt. Chàng không ngờ mùa hè trôi qua thật nhanh chóng. Sau vài lần triển-lãm ở Sàigòn, một người bạn học của Tiến bất ngờ được Phủ Quốc-Vụ Khanh Đặc Trách Văn-Hoá chọn gởi làm đại diện sang Đài-Loan dự khoá hội thảo và tu-nghiệp cùng các hoạ-sĩ vùng Đông Nam Á. Lỡ nhận lời mở lớp hội-hoạ Nhập Môn ở Hội-Việt-Mỹ, phần không muốn bỏ qua cơ hội được xuất ngoại may mắn này. Nhân dịp gặp Tiến, hắn nhờ chàng thay chân dậy thế dùm một khoá. Tiến thấy chàng rảnh rỗi nên sẵn lòng giúp bạn. Kế đó, Tiến lu bù quay cuồng trong vấn đề chuẩn bị tinh thần, bài vở cho cái chức vụ thầy giáo bất đắc dĩ. Thế đã chưa xong. Bạn của Tiến về nước khi khoá học ở Hội-Việt-Mỹ cũng vừa chấm dứt. Hắn lôi chàng ra chơi ngoài Vũng-Tầu bằng được để đãi công lao đã giúp hắn và đồng thời có người để kể về chuyến du-lịch hài ngoại lý thú. Mấy hôm mải dang nắng với gió biển. Thân thể của Tiến lột da từng mảng mỏng, đỏ như tôm luộc, nóng rát làm chàng nhớ đến cái khí hậu mát mẻ, dễ chịu của Đà-Lạt. Vì thế ở chưa được ba hôm Tiến đòi về. Khi xe đến ngả ba Long Khánh – Biên Hoà, chàng chia tay người bạn , trước cặp mắt ngạc nhiên nhìn tò mò của hắn, rồi đón chuyến xe đò cuối cùng của hãng Thống-Nhất để đi Đà-Lạt.



               Ngay buổi chiều hôm chàng lên. Sau bữa ăn tối, Tiến bách bộ  xuống con đường Duy-Tân ghé thăm Sơn, anh bạn đã cho chàng ở trọ lần trước. Người nhà bảo vừa mới đi vắng, chập tối sẽ về. Trong đầu óc không một mục đích nào rõ rệt, Tiến chào từ giã và đi thơ thẩn vòng lên con dốc Ngọc-Lan. Đứng ngắm nhà Thuỷ-Tạ bên bờ hồ Xuân-Hương và nhìn xuống bến xe đò – từng chiếc đầy bụi đường đất đỏ khi nẫy, giờ đã được chủi rửa sạch sẽ, nằm ngoan ngoãn yên ghỉ để chờ ngày mai lên đường, tiếp tục những chuyến hành-trình dài mệt mỏi. Thốt nhiên, Tiến nẩy ý định có lẽ chàng nên dành một khoảng thời gian nào đó, chẳng làm gì cả, chỉ phiêu-lưu, du lịch đi thăm các tỉnh thành lớn nhỏ từ vĩ-tuyến 17 xuôi Nam. Ít ra phải một lần trong đời. Để sau này nếu có ai nói đến tên của vùng đất nào trên quê hương miền Nam của chàng. Tiến có thể liên tưởng sơ qua hình ảnh, sắc thái đặc biệt của dân chúng địa phương. Chẳng hạn như ngoài những đồi thông, sương lạnh và phong cảnh trữ tình mà nhiều người đều nói về Đà-Lạt, tuy đời sống của thành phố này bề ngoài mang cái vẻ thâm trầm, xa cách , Nhưng nếu ai đã từng ghé ở một thời gian và chú ý đều sẽ thấy lối kiến-trúc nhà cửa, những con đường dốc lên, dốc xuống đã gây thứ ấn tượng thân thiết, gần gũi cho du-khách. Ngoại cảnh cũng dâng tạo trong lòng một chút gì gọi là buông thả, lãng mạn để quên đi những phiền muộn, ưu tư của cuộc đời.



               Nghĩ đến sự lãng mạn, đầu óc của Tiến bỗng tuần tự quay chiếu lại hình ảnh một buổi sáng chủ-nhật mấy tháng về trước, khi chàng lên triển lãm tranh ở đây. Tiến ngỡ những ngày dậy học bận rộn vừa qua khiến chàng lãng quên nỗi nhớ về một người con gái đã nhẹ nhàng, êm ái đến ngự trị tâm hồn chàng độ ấy. Nỗi nhớ vẫn chìm sâu trong tiềm thức, thỉnh thoảng khơi dậy như nhắc nhở chàng mối duyên nợ từ tiền-kiếp. Tiến quay gót và nghe lòng bâng khuâng sao xuyến. Chàng chậm bước rời con dốc Ngọc-Lan và đi về đường Trương Công Định. Tiến tìm xuống quán Hương-Xưa, nghĩ trong đầu ghé qua để nghe nhạc, uống tách café và hy vọng được nhìn lại bức tranh kỷ-niệm “buồn và ngồ ngộ…” mà ông chủ tiệm này - hôm cuối cùng cuộc triển lãm – nói mua làm quà sinh-nhật cho người con lớn của ông và đồng thời dùng để trang hoàng, trưng bầy trong quán. Lúc chàng vào buổi tối còn non sớm. Quán thưa người bàn ghế vẫn còn ngay ngắn , trông khá lịch sự, trang nhã. Tiến chọn một chỗ ngồi gần chân cầu thang, ẩn khuất mờ tối như nỗi cô đơn kín đáo của chàng. Đâu đó văng vẳng từ cặp loa tiếng dương-cầm bản Moonlight của Beethoven dịu dàng buồn. Tiến vừa nhìn thấy bức tranh của chàng treo ở bức tường đối diện cao bên cạnh quầy hàng thì ông chủ-tiệm từ trong nhà bước ra. Gặp khách, ông giơ tay chào. Chừng lúc bước lại gần để hỏi Tiến muốn gọi thức uống. Ông nhìn chàng một thoáng chốc rồi chợt vỗ trán, lên tiếng cười vui vẻ :



-Thảo nào trông quen quen. Vừa thấy mặt tôi nhớ đâu như có gặp hồi nào thì phải. Giờ thì biết rồi, hoạ-sĩ đến uống café hay để nhìn lại tranh cũ đấy ?


-Dạ thưa ông cả hai. Chắc ông cũng không nỡ tính thêm tiền chứ ạ.



Ông chủ quán cười thân thiện sau câu nói của chàng :


-Thôi tiền thưởng thức tranh cho hoạ-sĩ ghi sổ. Còn café, trà nước thì lần này tôi đãi. Thế định uống gì để tôi đi lấy ?




Tiến ngỏ lời cám ơn và nhờ gọi một ly café phin. Đoạn rất tự nhiên, chàng duỗi chân, ngả lưng dựa hẳn vào thành ghế dáng mỏi mệt. Mới sáng sớm hôm nay, chàng thức dậy còn nghe tiếng sóng biển vang vọng vào thành phố và cái nóng ẩm rát trên da thịt. Giờ đã ở cao-nguyên, ngồi đây giữa đám bàn ghế trầm lặng, đầm ấm dưới ánh đèn vàng mờ ảo và điệu nhạc êm dịu bao quanh. Chưa bao giờ Tiến có một chuyến đi xa thay đổi phong cảnh, khí hậu một cách đột ngột, nhanh chóng đến như vậy. Chàng móc lấy gói thuốc lá dẹp lép từ túi áo. Chỉ còn mỗi điếu thuốc lá cuối cùng cong queo, nhăn nhúm. Tiến vuốt điếu thuốc lại cho  ngay ngắn và để dành, đợi thêm một chút nữa, khi cơn thèm lên cao và ly café đã có sẵn.  Chàng nghĩ chừng ấy điếu thuốc hẳn sẽ ngon vô cùng. Rồi Tiến ngồi lặng yên nhìn bức hoạ của chàng, thả hồn tìm lại buổi sáng ngày nào trong căn phòng triển-lãm của thư-viện Đà-Lạt. Tưởng tượng đến dáng dấp sau lưng người con gái đang say mê đứng ngắm tranh. Tiến vẫn thắc mắc tại sao nàng từ chối không nhận khi chàng muốn tặng nàng để làm kỷ-niệm. Vì Tiến nghĩ nếu nàng có bức tranh này, đôi lúc nhìn nó sẽ gợi cho nàng nhớ một chút gì về chàng, về lần hạnh ngộ ấy. Hiện tại, bức tranh treo ở đây, nơi chốn của những kẻ thích ngồi trầm tư mặc tưởng, của những cặp nhân tình hò hẹn. Có lẽ nàng sẽ không còn dịp được nhìn lại nó.  Tiến nghĩ, đàn bà con gái mấy ai chịu vào quán café ngồi uống một mình. Hoạ trừ nàng thuộc tuýp nghệ-sĩ bơ đời, coi thiên-hạ như củ khoai. Hoặc giả nàng có người yêu đưa nàng đến đây như đôi tình nhân Tiến vừa thấy họ mở cửa bước vào. Cùng lúc đó, Tiến chợt có cảm giác hình như có ai đang để ý, nhìn chàng. Tiến quay đầu dáo dác tìm kiếm. Ở phía cuối quầy hàng, người con gái xuất hiện từ bao giờ, đang sửa soạn tách muỗng lên khay để đem ra cho khách, nàng ngừng tay đứng nhìn chàng với nụ cười hiền lành nở trên môi. Nụ cười tiềm ẩn trong tâm thức thỉnh thoảng đã làm chàng ray rứt đến mủi lòng mỗi khi chợt nhớ. Tiến ngây người bàng hoàng.  Chàng không ngờ được gặp nàng ở đây. Tất cả những ý tưởng, những ước mong chân thành tự thâm tâm, đáy lòng mà chàng định bụng sẽ thố lộ, nói cùng nàng giờ đã biến đâu mất. Tiến đứng dậy ngập ngừng chào khi nàng bưng khay nước đến và lên tiếng thật nhỏ nhẹ :



-Ông mới trở lại Đà-Lạt ?



Tiến trả lời, chàng hơi ngạc nhiên :

-Vâng, cũng mới chiều nay thôi. Sao cô đoán hay vậy !


Nàng mỉm cười không đáp, chỉ về hướng bức tranh của chàng và hỏi tiếp :

-Ông ghé đến đây vì nó hay chỉ lên chơi nghỉ hè ?


Tiến gật đầu :

-Một phần vì nhớ bức hoạ. Nhưng nói đúng ra, tôi trở lại là vì một người cũng đã yêu và thích cái “buồn và ngồ ngộ” của nó …




Tiến bỏ lửng cuối câu. Chàng nhìn sâu vào đôi mắt to, đen láy của nàng để tìm những phản ứng sau khi nàng nghe xong câu nói đó. Trong  bóng tối, Tiến thấy đôi mắt thơ ngây loé lên một tia chút vui mừng, cảm động. Rồi nàng vội cúi mặt che dầu vẻ lúng túng, im lặng không nói. Tiến đoán nàng e thẹn nên lảng sang chuyện khác :



-Tôi thắc mắc một điều rất tầm thường, chắc cô không nỡ từ chối nếu tôi muốn biết tên ?


-Thưa ông em tên Vy, Tường-Vy với y dài. Ông muốn gọi tên Vy trống không cũng được.



Nàng trả lời một cách ngượng ngập.        



-Riêng tôi tên Tiến. Tôi chưa già lắm đâu, mong Tường-Vy đừng gọi tôi bằng ông, mà
 cũng đừng “dạ thưa” nữa nhé ! Nghe có vẻ “gần đất xa trời” quá !


-Dạ thôi !



Tiến cười dòn sau câu trả lời của nàng :

-Đấy ! mới đó lại dạ thưa nữa rồi. Tường-Vy chóng quên ghê. Đùa thế chứ, thôi để Tường-Vy trông hàng, dịp khác tôi muốn gặp nói chuyện với Tường-Vy được không ?




Sau giây phút ngần ngừ, suy nghĩ. Tường-Vy gật đầu. Nàng bảo chiều mai Tiến có thể đến đón sau giờ nàng học dương cầm ở một tư-gia trên con đường Phạm Phú Thứ. Chàng bằng lòng nhận lời và chưa hề cảm thấy sung sướng, hạnh phúc như buổi tối hôm ấy. Nỗi vui sướng tràn ngập làm chàng bỗng mơ tưởng. Tiến mơ tưởng một đời sống thật bình thường, nhưng luôn luôn phải có Tường-Vy bên cạnh cuộc đời chàng. Tiến mường tượng rằng có lẽ nàng là lẽ sống của chàng từ ngày hai người vô tình gặp gỡ. Tâm hồn chàng không còn nguyên vẹn như thuở chưa biết nàng. Tiến ngồi yên như thế, uống tách café đem đậm mà vẫn thấy vị ngọt bùi trong cuống họng, tự hỏi không biết cuộc đời chàng sẽ ra sao nếu không có sự tái-ngẫu , tình cờ này. Và trong giây phút quay trở lại với thực-tế, Tiến nhận thấy đời chàng như bắt đầu rẽ vào một khúc quanh của giòng sông mà tương-lai chàng thử để mặc cho nó trôi theo giòng nước định mệnh, của tiền địn.





***



Tiến vòng tay nhẹ nhàng ôm lấy Tường-Vy, âu yếm kéo nàng ngả vào vai chàng. Tường-Vy không chút phản ứng, mềm nhũn người ngồi dựa sát bên cạnh Tiến như con mèo nhỏ ngoan ngoãn. Chàng lùa những ngón tay đừa nghịch với mái tóc mềm, óng ả như tơ lụa của nàng và thì thầm :



-Nghĩ gì vậy hở nhỏ ?



Tường-Vy mỉm cười :

-Em chợt nhớ hình ảnh ngày đầu tiên hẹn nhau. Trông dáng dấp anh từ đàng xa, tay cầm tờ báo cứ như ông công-chức đang đến sở chứ không phải là một chàng đang đến hẹn với bồ. Bộ anh thích đọc báo lắm hở ?


-Không thích cũng phải đọc nhỏ à ! Dạo này tin tức chiến-sự nghe bi đát quá. Lại thêm chuyện quốc-hội Hoa-Kỳ vẫn chần chờ chưa chịu chấp thuận ngân sách viện-trợ cho nước mình. Anh nghe nhiều người kết luận là tụi Mỹ sẽ phủi tay, buông xuôi… Mà thôi, nhắc chi chuyện đó làm gì. Nhỏ chê anh “già” vậy chứ hôm sau cuối tuần rủ đi chơi Thung Lũng Tình Yêu sao lại bằng lòng ?




-Tại thấy anh hiền lành, nói chuyện có duyên – không như mấy tên con trai trong lớp thành thử người ta mới nhận lời. Con nhỏ Quyên bạn em nói nên coi chừng, đề phòng dân Bắc kỳ cái miệng tán gái dẻo quẹo, ngọt như mía lùi và hay bắt cá hai tay !!!




-Vậy chứ bạn của nhỏ người gì ? Tiến cười.


-Gia đình nhỏ Quyên cũng Bắc kỳ “nhập cảng” như anh. Nó bảo, thấy mấy ông anh cua đào, nói sạo một cây cho nên nó đâm ngán luôn con trai Bắc.




Tiến làm bộ gật gù đắc ý :

-Điều đó càng chứng tỏ không dễ gì kiếm được một người như anh. Chắc kiếp trước em nhờ có chân tu hay sao nên kiếp này may mắn…


Tường-Vy nghe nói quay đầu cắn nhẹ vai chàng :

-Thôi đi ông ! nói ngược ngạo vậy mà nghe được. Đã vậy còn tự quảng cáo, khen mình mà không biết xấu hổ  !



Tiến chẳng trả lời. Chàng kéo nhẹ Tường-Vy lại gần và cúi xuống hôn lên đôi môi mọng, chúm chím hình trái tim của nàng. Tường-Vy ngửa mặt, đôi mắt khép kín đón nhận nụ hôn chàng nồng cháy như một luồng điện truyền qua cơ thể khiến đôi vai nàng khẽ rung động, ngây ngất. Tiến thoáng nhìn rồi mê mải, ngắm đôi lông mi dài và đậm của Tường-Vy mà tưởng tượng đến tương lai nàng mãi mãi hoàn toàn thuộc về chàng. Tiến cảm thấy cuộc tình của hai người dường như đã được tiền-định, xếp đặt do bàn tay mầu nhiệm của đấng tạo-hoá. Không thể nào kết hợp bởi sự cố gắng, ép buộc của con người. Trong thâm tâm, chàng thành thực công nhận trên cõi đời này chẳng thiếu gì bao vẻ thuỳ mị, ngoan hiền như Tường-Vy – có thể còn hơn thế nữa. Nhưng đối với Tiến, nàng cũng đủ biểu tượng cho cả một thiên-đàng mơ ước hạnh phúc nhỏ bé của chàng. Ở nàng, chàng linh cảm có một sự ràng buộc, gắn bó nào đó mà chàng không thể tìm kiếm ở bất cứ người con gái nào khác. Có thể tình yêu đã làm Tiến chủ quan.



Riêng Tường-Vy, sau vài lần hẹn hò và hiểu rõ tình cảm của Tiến đối với nàng; trong một buổi chiều đi dạo quanh những lối mòn lên viện Đại-Học Đà-Lạt. Khi Tiến thắc mắc hỏi cảm tưởng của Tường-Vy về chàng qua ngày đầu gặp gỡ. Nàng ngập ngường bảo dáng nghệ-sĩ và đôi mắt đa tình của Tiến đã gieo nỗi vương vấn, xao xuyến mà xưa nay lòng nàng chưa bao giờ từng trải. Nhất là lúc nói chuyện với nàng ở phòng triển lãm mà chàng mải mơ mộng, suy nghĩ đâu đâu khiến Tường-Vy hơi cảm thấy chạm tự ái lẫn với sự tò mò, nhơ nhớ. Rồi nhân ngày sinh-nhật thứ mười tàm của Tường-Vy, bố của Tường-Vy vì cưng cô con gái lớn, hỏi món quà gì nàng thích, Tường-Vy ngỡ Tiến sau lần triển lãm tranh ấy sẽ chẳng bao giờ trở lại, và quán café nhà nàng cũng cần một bức tranh treo. Nàng lưu luyến bức hoạ ấy quá đỗi vì ít nhiều, nó cũng đã dường như phảng phất một tâm sự phiền muộn nào đó mà chàng muốn gói ghém, nên chẳng ngần ngại viện cớ xin bố để mua cho nàng. Nghe Tường-Vy nói, Tiến không ngờ nàng có một tâm hồn lãng mạn đến như vậy. Tuy ở Đà-Lạt mới đôi ba tháng, Tiến cho là có lẽ khung cảnh, khí hậu làm tâm tình con người cởi mở, dễ trở nên xúc cảm. Tiến nhớ lại lúc đi bộ dưới những con đường hai hàng thông rũ lá, êm ả tĩnh mịch , hay ngồi trên ngọn đồi nhìn xuống thung lũng cỏ cây xanh mát và mặt nước hồ nên thơ, phẳng lặng. Không gian chừng như cô đọng, trầm lặng khiến cho Tiến có thể thốt lên những ý tưởng của chàng tự đáy lòng, và thì thầm những lời dịu dàng với nàng mà không cần phải hét tướng lên cho mọi người nghe thấy như ở Saigòn; xó xỉnh nào cũng đông người, ồn ào như một phiên chợ. Cái mát lạnh ở đây cũng thế, dễ làm người ta gần lại nhau hơn để tìm chút ấm áp, sưởi lòng nhau. Tường-Vy vẫn thường chia sẻ những ước mơ mai sau của nàng trong một vài lần đi chơi với nàng. Ước mơ nàng bình dị, ngọt ngào như giòng nước suối. Tường-Vy hy vọng sẽ trở thành cô giáo; nàng thích được dậy học mỗi ngày nửa buổi , còn nửa buổi để lo cơm nước cho chồng con. Nếu hai người lấy nhau, Tiến tin chắc vậy, nàng muốn chàng tiếp tục sáng tác và mở một phòng triển lãm ở thành phố nhỏ bé, hiền hoà này. Còn nhiều mơ ước khác mà Tiến thỉnh thoảng, dùng những đoạn kết của những câu truyện cổ-tích thần tiên như : “…. và từ đó, hai người ăn ở, sống hạnh phúc bên nhau cho đến ngày răng long đầu bạc …” để giỡn đùa phụ hoạ với nàng.



***





Cả tuần nay chẳng được tin tức của Tường-Vy và gia đình nàng khiến Tiến ra vào bồn chồn, lo âu. Chàng thấy báo chí loan tải vụ dân chúng Cam Ranh, Nha Trang đã rục rịch di tản từ tuần lễ trước. Số phận của Đà-Lạt và tỉnh Lâm-Đồng có lẽ cũng chỉ theo sau một, vài ngày. Tiến hy vọng gia đình Tường-Vy sẽ cùng đám người đào thoát xuôi nam tìm đường về Sàigon. Rồi tin thành phố Đà-Lạt bỏ ngỏ cho Cộng Sản và những chuyện thương tâm xẩy ra trên quốc lộ máu, kinh hoàng số 19 đến với mọi người như một biến cố đã chờ đợi sẵn, không tránh khỏi. Tiến cố tìm những chuyện lặt vặt chẳng hạn như ghé thư-viện Đắc-Lộ, Vạn-Hạnh ở gần nhà để đọc sách, nghiền ngẫm , hoặc la cà tới những phòng triển lãm, các tiệm sách báo cũ ở vỉa hè Lê Lợi… để đầu óc chàng đỡ hoang mang, rối bời. Mặc dù đã tìm đủ mọi cách, hình ảnh của Tường-Vy vẫn lẩn quẩn, chập chờn ngay cả trong giấc ngủ ngắn đầy mộng mị của chàng. Tiến lo đến nỗi chàng gầy đi hẳn. Tiến kiếm tìm, mong ngóng bất cứ người quen nào từ thành phố cao-nguyên ấy vừa đặt chân đến Sàigon để hỏi thăm tin tức về Tường-Vy. Có lúc Tiến ví họ như những chiếc thuyền phao bé nhỏ để chàng cố bám víu, lây lất tìm lại nửa mảnh hồn của chàng còn đang bơ vơ, lưu lạc không biết trôi giạt phương trời nào. Có người bảo rằng gặp gia đình nàng ở Bình-Tuy đang tìm cách xuống Vũng Tầu. Kẻ nói cả nhà Tường-Vy còn kẹt lại Đà-Lạt. Tiến nghe và chỉ thấy lòng thêm hoang mang, khổ sở. Chàng nghĩ đến câu nói của người xưa “Nhất nhật bất kiến, tam thu hề”. Một ngày không gặp tưởng những đã ba mùa thu. Quả không sai lầm trong cái trường hợp của Tiến. Xa cách Tường-Vy cũng gần hai tháng nay, từ khi Tiến về Sàiogn ăn tết cùng gia đình. Mỗi ngày trôi qua như cả một thiên thu đối với chàng, nhất là trong hoàn cảnh, biến cố trầm trọng như hiện tại. Tin tức chiến-sự mỗi ngày một trở nên dồn dập, đến gần với thành phố. Mặt trận miền đông ở Long Khánh bắt đầu có sự áp lực từ phía Cộng Sản. Sư đoàn 18 với những chiến sĩ bộ binh gan lì, gườm súng sẵn sàng quyết tử , sẽ không nhượng bộ thêm một tấc đất. Giá vàng, giá đô la lên vùn vụt từng ngày , từng giờ. Ngoài đường chỉ nghe dư luận bàn tán chuyện mua bàn tìm lối ra ngoại quốc. Tiến nhớ mông lung chuyện bố mẹ kể về những ngày trên con tầu “há mồm” lên đênh từ Bắc di cư vào Nam của năm 1954-1955. Ngày ấy chàng vừa mới ra đời để có thể hiểu những gì đã xẩy đến. Bố mẹ chàng lo âu ra mặt. Hai người còn kể cho chàng về những thủ đoạn, những màn chụp mũ, đầu tố vô lương tâm. Đã một lần lìa quê cha đất tổ để tìm mảnh đất tự do, gây dựng lại mái ấm gia đình, bây giờ viễn tượng tương lai ở trước mặt bỗng trở thành đen tối, u ám thêm một lần nữa. Tiến thấy bố chàng trầm tư ra vào thở dài, uất nghẹn. Tiến không biết chàng còn có thể chờ đợi Tường-Vy được bao lâu. Nhóm liên-minh Hoà Hợp Hoà Giải muốn đưa cựu tướng Dương Văn Minh lên thay ông Thiệu để thương thuyết, nói chuyện với Mặt Trận Giải Phóng. Nhiều người vẫn còn ngây thơ, hy vọng tin tưởng vào chiêu bài hoà bình. Tiến thấy tình thế mỗi ngày một tuyệt vọng. Một người Mỹ chàng quen biết dậy Anh-văn ở Hội Việt-Mỹ, tình cờ gặp Tiến, ngỏ ý hỏi gia đình chàng muốn rời thoát cùng hắn. Tiến phân vân, lưỡng lự giữa những ý nghĩ khinh bỉ dân tộc Mỹ đã dùng quê hương chàng như một con cờ trên thế giới, rồi phủi tay, bỏ mặc dân tộc chàng giữa cơn nguy biến và đồng thời cảm kích trước lời giúp đỡ chân thành của hắn. Có lẽ hiểu được phần nào tâm trạng của Tiến lúc bấy giờ, hắn vội dúi cho chàng tờ giấy ghi rõ giờ giấc và điểm hẹn để xuống tầu, rồi khéo léo từ biệt.



Tiến cầm trên tay mảnh giấy mà lòng chàng chỉ nghĩ về Tường-Vy. Cho dù ở bất cứ chân trời đất nước nào đi chăng nữa, thiếu bóng dáng nàng thì cuộc đời chàng cũng trở thành khô cạn, vô nghĩa. Tiến thắc mắc giờ này Tường-Vy đang ở đâu, có còn lo nghĩ nhiều gì về chàng. Trong là thư cuối cùng nàng gởi cách đây một tháng, hôm sau tết. Tường-Vy tâm sự : “Suốt ngày em chỉ ở nhà dạo đàn, nghe nhạc và nhớ anh. Đường phố vắng anh bỗng buồn chi lạ. Em cũng chẳng ló ra ngoài vì không muốn những chốn cũ mình ghé qua gợi lại hình ảnh, kỷ-niệm ngày còn bên nhau. Anh sao hay có cái tật hôn ẩu em ghét tệ. Bây giờ thì lại …”. Càng nghĩ Tiến càng nhớ nàng điên cuồng. Đêm chàng ngủ những giấc mơ ngắn chập chờn, mong trời mau sáng để lân la đến các trung-tâm đón người di tản, tị-nạn hòng mong gặp lại nàng. Lệnh giới-nghiêm bẩy giờ tối ban hành khiến ngày càng thâu ngắn. Vật giá càng leo thang một cách khủng khiếp chưa từng thấy. Mọi người đâm hốt hoảng. Nỗi lo sợ hiện trên những khuôn mặt của thành phố. Bố mẹ của Tiến hối thúc chàng tìm đường bảo vệ lấy thân. Chừng tình thế yên ổn trở về cũng chẳng muộn. Tiến cố nấn ná, thầm cầu mong Tường-Vy xuất hiện như một phép mầu, để cùng chàng dắt tay nhau ra đi. Thành phố Sàigon bây giờ có những triệu chứng trở thành bỏ ngỏ vô chủ, hỗn loạn. Từng đoàn người lũ lượt kéo nhau ra Tân Cảng, xuống những bến tầu ghe thuyền đã chuẩn bị, chờ đợi. Tiến vẫn kiên nhẫn.



Cho đến ngày đoàn người "chiến thắng" , mặt mày xanh xao lái xe tăng dẫm nát cổng tường dinh Độc-Lập. Tiến biết chàng không thể chờ đợi lâu hơn được nữa. Mẹ chàng khuyên lơn rằng chàng hãy yên tâm mà đi. Hai người viện cớ tuổi đã già, vả lại sẽ liên lạc ngay với chàng khi nghe bất cứ tin tức gì của Tường-Vy. Hy vọng cuối cùng chàng nghĩ trong đầu là gia đình nàng cũng sẽ vượt biên, tìm đường tị-nạn sau khi nghe lệnh buông súng đầu hàng của vị nguyên-thủ quốc-gia một cách bất đắc dĩ. Tiến đi cùng người bạn phi công lái chiếc trực thăng, bốc cả gia đình hắn nhắm hướng hải-phận quốc tế. Lúc quay đầu nhìn lại thành phố thân yêu vẫn từng được mệnh danh là hòn ngọc Viễn-Đông, bây giờ bỗng trở thành khói lửa, hỗn loạn, chia tan. Những mái nhà, dinh thự, phố xá dường như thu hẹp, nhỏ dần theo ánh mắt cố ngoái nhìn của mọi người đang ngồi im lặng trong lòng con tầu từ từ cất cánh, nhẹ bỗng. Một ý tưởng chợt thoáng qua trong đầu là Tiến sẽ không còn bao giờ còn gặp mặt bố mẹ chàng và mãi mãi xa lìa quê-hương cùng Tường-Vy yêu dấu khiến Tiến thấy tê tái, chết điếng cả hồn. Chàng thoáng nghe tiếng vài người rấm rức, sụt sịt khóc khi chiếc trực thăng vừa ra đến cửa biển. Trong giây phút, tất cả những kỷ-niệm của tuổi thơ ấu, sinh sống ở thành phố của mọi người sẽ bỏ lại phía sau lưng. Nhìn chân trời bao la và biển rộng mênh mông, Tiến có cảm tưởng đời chàng như con thuyền trôi dạt không biết đâu là bến bờ. Những mơ ước ngày trước cùng Tường-Vy chỉ còn như ngọn nến nhỏ heo hắt trong đầu óc ngây dại của Tiến. Chàng chợt nghe một tiếng nổ ầm và sau đó cả con tầu rung chuyển, chao đảo mất trớn. Người bạn phi công từ lúc bắt đầu cuộc hành trình vẫn im lặng, bình tĩnh bỗng hét lên, giọng lạc hẳn :



- Thôi chết mẹ cả lũ ! tầu bị đạn ở cánh quạt rồi Tiến ơi !!!



Hắn cố giữ con tầu thăng bằng quay đầu trở vào bờ. Khói đen từ động cơ bên trên theo gió biển lùa vô sàn tầu khiến tất cả mọi người mù mịt, hoàng sợ oà khóc. Tiến cảm thấy đau nhói nơi bả vai, chàng đưa tay rờ mới biết mình đã bị một mảnh kim loại , chẳng biết đâm vào người từ lúc nào, máu ra ướt cánh tay áo. Chiếc trực thăng gẫy cánh quạt và bị hỏng máy mất cao độ mỗi lúc một thấp dần, nghiêng ngả như con diều đứt giây. Bờ biển vẫn còn xa đến một khoảng cách ngoài tầm nhìn của con mắt. Tiến đã sẵn yếu trong người nay lại bị thương, mất nhiều máu khiến chàng thiếp vào cơn mê man, nửa tỉnh nửa sảng. Tiến mơ hồ thấy Tường-Vy mặc chiếc áo dài trắng, áo len nàng cũng mầu trắng. Tay cầm bó hoa cúc-trắng từ trên ngọn đồi sương khói mớ ảo đi xuống vẫy gọi chàng. Ánh mắt u uẩn buồn của nàng nhìn Tiến như trách móc sao nỡ ra đi một mình không đem nàng theo. Nàng thốt lên chỉ bấy nhiêu rồi cúi đầu lặng im. Tiến ôm lấy vai nàng vỗ về, bảo rằng chàng cũng khổ sở mong đợi tin tức của Tường-Vy, chàng hỏi nàng ở đâu sao không nhắn cho chàng biết. Tường-Vy vẫn yên lặng hơi ngửa đầu cho chàng thấy vết bầm tím nơi cổ nàng. Tiến quỳ gục xuống chân nàng đau đớn. Chàng chưa kịp nói gì với nàng thì Tường-Vy đã quay người bước đi , Tiến nghe chừng như đâu đây có ai lay gọi tên chàng. Tiến hé mắt mở. Chàng chỉ kịp thấy mặt nước biển xanh thẫm rồi cả con tầu bùng nổ, tan vỡ như xác pháo. Trong giây phút cuối cùng đó, chàng bỗng nghĩ về những mùa xuân không bao giờ đến như đã mơ ước, và chàng rướn ngừơi lên khẽ gọi “Tường-Vy ơi chờ anh với” trước khi chàng cảm thấy cái mát lạnh và mùi vị mặn của biển sâu ôm cuốn lấy chàng.



SVT 1987

 
 

 

Comments

Popular posts from this blog

THƠ - KHUNG TRỜI TUỔI TRUNG-HỌC

NHỮNG NẺO ĐƯỜNG QUÊ HƯƠNG - MỸ THO