Hồi ký ghi nhận lại bao cảm nghĩ và hình ảnh trong những ngày tháng lang bạt trên khắp nẻo đường quê hương...
HÀNH TRÌNH VỀ
ĐÀ LẠT-I
Cuộc hành trình nào về Đà Lạt kể từ
năm 1999 tới nay, lần nào cũng bắt đầu bằng một chuyến ghé thăm công ty du lịch
Sinh Cafe ở đường Đề Thám. Vợ chồng tôi thường mua vé của công ty du lịch nổi tiếng với dân ngoại quốc,
nhất là dân Tây ba-lô - vì họ làm việc rất đúng theo nguyên tắc của nước ngoài.
Nghĩa là luôn khởi hành đúng giờ, cho dù trên chuyến xe 45 chỗ có khi chỉ lèo
tèo vài người - như năm 2008 chẳng hạn, cả chuyến xe chỉ có gia đình tôi 6 người
và thêm 2 người khách ngoại quốc. Sau đó là tài xế không dừng để đón rước khách
vẫy xe dọc đường - ngoại trừ khách đã mua vé trước và dặn đón họ trên tuyến đường
lên Đà Lạt, và tài xế lái xe rất cẩn thận, phải gọi là quá cẩn thận chạy đúng tốc
độ quy định, vì hớ hênh là sẽ bị Cảnh Sát Giao Thông (CSGT) phạt nặng, giam bằng
lái - nếu không chịu "bôi trơn", hay nhờ "Cụ Hồ" năn nỉ
dùm. Trong khi đó, có những hãng xe khác thì tha hồ mà lao nhanh, vượt mặt một
cách rất nguy hiểm - vì họ ỷ đã có "ô dù" to che chở. Chưa hết, tài xế
xe của hãng Sinh Cafe không bao giờ đưa hành khách đến những nơi gọi là
"cơm tù", đó là những trạm dừng chân có quán ăn mà từ chủ, nhân viên tới môi giới (bây giờ
hay gọi là “Cò”) thường nổi tiếng là dữ như gấu, ai không chịu vào ăn là có
chuyện. Tôi cứ nghĩ, thôi - mình đi du lịch luôn tiện dư thời giờ để ngắm cảnh,
chả có gì vội - thà chậm mà chắc ăn.
Buổi sáng
sớm hôm lên đường, trong lúc chờ đợi xe đến đón - khoảng vào lúc 7:30 sáng -
tôi hay la cà đi dạo quanh mấy con đường
bên cạnh như Bùi Viện, Phạm Ngũ Lão; thấy cảnh đời thường nào mà sau này về có chuyện để kể, tôi chụp vài ba tấm ảnh để dành -
như tấm hình cái nhà hàng Crazy Buffalo
mầu đỏ chét này, cách đây không lâu, đó là một khách sạn mà tôi đã bị mất ngủ cả
đêm, vì tiếng nhạc mở ầm ĩ đến gần 2 giờ sáng mới chịu ngưng từ cái quán Bar
Go-Go phía đối diện. Quả là vật đổi sao dời - nhất là trong cái bối cảnh kinh tế
vươn lên của một quốc gia sau hơn 25 năm bị đè nén, đi thụt lùi. Nhiều nơi tôi
thấy mới năm ngoái còn khai trương, mở
quán có múa lân, có ban nhạc sống với kèn trống rất ư là hào nhoáng, nhộn
nhịp, thế mà qua năm sau về đã thấy biến đâu
mất, thay vào đó là cái doanh nghiệp mới, thương hiệu cửa hàng hoàn toàn
khác lạ.
Sống ở Mỹ
coi như đã gần 4 thập niên, tôi từng thấy cứ mỗi lần kinh tế suy thoái, hãng xưởng
đóng cửa thì số người thất nghiệp dĩ nhiên phải tăng theo, mà đa số thường hay
sống theo kiểu "để mai tính" - nghĩa là sống trên từng tấm ngân phiếu
lãnh lương phát hai lần mỗi tháng. Sau vài tháng mà không có tiền trả tiền nhà,
tiền nợ thì coi như lên đường sống kiếp không nhà, không cửa. Đấy là một xã hội
tân tiến, văn minh vượt bực như thế mà không tránh khỏi hình ảnh những kẻ tha
phương cầu thực, ngủ bờ ngủ bụi thì
đừng nói chi là Việt-Nam lại có thể tránh
khỏi. Chỉ cách vài trăm thước, nơi có đám du khách - cả Việt lẫn ngoại kiều - đang tấp nập, tụ tập và háo hức chờ giây
phút xe chuyển bánh lên đường đi đến những nơi xa lạ, phong cảnh đầy quyến rũ để
tiêu tiền - tôi thấy có hai thanh niên đang rũ người ngồi bó gối ngủ gục với
cái túi ny-lông bên cạnh, có lẽ đựng vỏn vẹn cái quần, chiếc áo của họ để thay
đổi.
Trong lúc đang bần thần, chưa biết
mình sẽ làm được gì cho họ, một thanh niên khác bán vé số với hai đôi chân tàn
tật - đang lết dần lại ở đoạn bên kia đường. Tôi hồi tưởng lại những hình ảnh
tương tự như thế khi lần đầu tiên - sau hơn 25 năm trở lại cố hương - và đã thầm
nghĩ rằng: mỗi năm người ta dành dụm tiền nong, ngày nghỉ để du lịch DisneyLand,
hay những chuyến du thuyền khắp Âu Châu, thế giới - sao mà mình lại cứ đâm đầu
về chốn này, để chứng kiến cảnh trầm
luân của đời thường khiến cho tâm hồn và
cảm xúc cứ lên xuống y như người ta cưỡi
những roller coasters ở các khu giải trí khắp nước Mỹ, có điều là thiên hạ thì
thích thú, la hét khản cả họng trong lúc mình chỉ biết đứng nhìn mà chỉ biết thở
dài.
Đối với xã
hội bên Ấn-Độ thì có lẽ những hình ảnh
này rất thông thường, vì họ cho rằng mỗi người sinh ra đời đều có một định mệnh,
những kinh nghiệm mà họ muốn trải qua, để sau bao nhiêu karma - tái sinh hay
luân hồi – khi nào linh hồn đã hiểu thế nào là vô thường, thế nào là đau khổ và
từ đâu mà đến, lúc ấy thì họ mới thoát khỏi cái gọi là vòng lẩn quẩn của đời
người. Trong khi đó, kinh thánh của Thiên Chúa giáo cho rằng Chúa Jeus xưa đã
có lần bảo : "Cái nghèo khó sẽ luôn luôn ở cùng với loài người", và
càng nghĩ - tôi càng thấy thấm câu nói ấy vốn chẳng sai vào đâu, vì chung quy -
cả nhân loại không sanh ra đời cũng một lúc, luôn luôn có kẻ trước người sau, cộng
thêm cái gọi là : "9 người 10 ý" - thì làm sao có sự quân bằng, bình
đẳng cho tất cả ? Biết thế, nhưng hình ảnh người thanh niên tật nguyền ấy vẫn
ám ảnh trong đầu óc tôi mãi cho đến ngày hôm nay và không biết đến bao giờ trong
mai sau. Sau này, đọc tin tức trên báo chí, tôi mới biết hiện nay có rất nhiều
"diễn viên đường phố" (như người thanh niên tật nguyền trong tấm hình
trên) kiếm được rất nhiều tiền qua những màn kịch trong vai khổ ải, vì nó dễ
làm động lòng thương tâm, từ bi của khách đi đường, nhất là khách du lịch, ngoại
quốc.
Một trong những thứ tôi hay mua
đem theo trước khi xe chuyển bánh là tìm
vài tờ báo Việt ngữ để đọc giết thì giờ cho chuyến đi có thể kéo dài từ 6 đến 7 tiếng, tùy đoạn đường tốt, xấu.
Quanh khu phố Tây ba-lô ở đường Đề Thám
thì có cả đội ngũ người bán báo, bánh kẹo, bản đồ và đồ lưu niệm... lúc nào
cũng đảo qua đảo lại, loanh quanh nơi những hàng quán, khách sạn và những chiếc xe buýt vừa đậu lại, đón tiếp hành
khách.
Trong nhóm người bán hàng rong đó, lần đầu tôi gặp một cô gái bán báo từ năm
1999, mua dùm cô hai, ba tờ báo để mở
hàng, sau cuộc trò chuyện tôi biết quê cô ở mãi tận xứ Quảng, vào Sàigòn để kiếm
ăn và gửi tiền về quê giúp gia đình. Từ đó về sau, mỗi lần hai vợ chồng tôi
dùng hãng Sinh Cafe để lên Đà Lạt hay những chuyến du ngoạn về miền Tây, tôi
thường gặp lại - không phải chỉ riêng cô
bán báo này - mà là hai cô gái bán báo giống hệt nhau như đúc. Hóa ra đó
là hai chị em sinh đôi, và nhìn bề ngoài, chắc ít ai có thể nghĩ "cô
bé" này tuổi cũng trên 28 và đã có chồng, con mà lương người chồng chỉ đủ
trang trải phí tổn hàng ngày, muốn dành dụm thêm thì cả hai cô đều phải trở lại
làm nghề bán báo - tuy không phải đi lang thang qua nhiều khu phố khác như nghề
bán vé số - chỉ loanh quanh vài con đường quanh khu Đề Thám này thôi.
Xưa tôi thường lên xuống Sàigòn -
Đà Lạt như cơm bữa, nhiều đến nỗi tuy dù có ngủ gà ngủ gật trên xe đò (thường
là với một trong hai hãng: xe đò lớn Thống
Nhất hoặc xe Minh-Trung, nhỏ hơn chỉ 12 chỗ), tôi vẫn đoán biết mang máng rằng
mình đang ở tỉnh lỵ nào, thị xã nào. Chẳng hạn như lúc xe chạy thật êm thắm,
không bị ổ gà và tiếng người lơ xe còn liếng thoắng mời gọi những người mang
hành lý đứng bên lề đường, tôi biết mình vẫn còn đang trên xa lộ Biên Hòa; khi
xe bắt đầu lắc lư, nghiêng phải nghiêng trái và chạy chậm lại, đó là lúc xe vào
địa phận ngã ba Long Thành - Long khánh, nơi có đoạn đường xấu nhất vì thường
hay hư hại, nhiều ổ gà - nơi hai tuyến
đường tách những chuyến xe đò ra hai ngã - ngã đi về hướng Vũng Tầu, ngã tiếp tục
lên Đà Lạt. Muốn kiểm chứng là mình đúng hay sai, chỉ cần hé mắt nhìn hai bên
đường, chắc chắn tôi sẽ thấy cánh rừng cây cao su mọc dầy đặc, kín mít như đang
chạy lùi lại phía sau. Chừng hơn hai tiếng sau, khi xe ỳ ạch, mệt nhọc như đang
leo dốc, tôi có thể bảo đảm rằng mình đang ở đâu đó trên đoạn Đèo Chuối, tức là
đã đi ngang qua Phương Lâm, Định Quán không xa. Tôi thường hay tỉnh ngủ khi bắt
đầu cảm thấy có gió mát lạnh lùa vào trong xe, và chắc chắn hơn khi mũi mình đánh
hơi, ngửi được hương vị mùi trà thơm quyện trong không khí, biết mình đang tiến
dần vào thị xã Bảo-Lộc; và sau bữa ăn trưa, độ chừng 2 tiếng nữa là sẽ đến Đà Lạt.
Hơn 40 năm
sau, hành trình lên Đà Lạt từ Sàigòn - trung bình cũng vẫn phải mất trên dưới 6
tiếng đồng hồ, kể cả thời gian dừng chân để hành khách đi vệ sinh và cho bữa ăn
trưa. Trong hoàn cảnh chiến tranh thì con đường này thường hay bị đắp mô, cầu cống
bị giật xập để tạo khó khăn cho kẻ thù địch; cộng với chuyện đất lở, đất
lún,v.v... khiến di chuyển bằng bất cứ phương tiện nào cũng chậm chạp, khó
khăn. Vậy mà 40 năm sau giải phóng, giao thông trên con đường này vẫn ù lỳ, chậm
chập - cho dù đã xây xong 20 km con đường cao tốc trước khi vào thị xã Đà Lạt,
giảm được 30 phút thay vì gần 1 tiếng đi con đuờng cũ. Chẳng qua vì chính quyền
trung ương lẫn địa phương (bây giờ chả hiểu sao, người ta hay dùng chữ "sở
tại" thay vì địa phương như ngày trước) không có một kế hoạch thống nhất để
trùng tu, xây cất, cộng thêm với cái gọi là công trình bị
"cắt xén", ăn bớt một cách vô tội vạ - cho nên có nhiều đoạn đường mới
sửa xong năm trước, năm sau đã bị hư hại, suy sụp nhanh chóng, nghe nói đâu
như vì nhờ cái sáng kiến có một không
hai trên thế giới đó là loại "bê tông cốt tre" (dùng tre thay vì dùng
cốt sắt) để "tiết kiệm" tài sản của dân. Không thể tưởng tượng nổi !
đó là câu dịch lại thật chính xác từ chữ "unbelievable" mà tôi đã lầm
bầm trong miệng trong lúc nhìn đoàn xe nối đuôi nhau bị kẹt lại 1 tiếng đồng hồ
ở đoạn sắp lên đèo Bảo Lộc vì đang có công trình sửa chữa ở phía trước.
Cho dù lên xuống Đà Lạt đã bao
nhiêu năm, bao nhiêu bận, nhưng mỗi lần xe vào thành phố và từ trên cao nhìn xuống
thấy hồ Xuân Hương ở phía dưới, lòng tôi vẫn cứ bồi hồi, giao động - mà có lẽ,
trong tâm thức đã làm sống lại bao nhiêu kỷ niệm sâu đậm chìm sâu trong ký ức -
nhất là nó khiến cho tôi nhớ lại cái cảm tưởng đầu tiên hơn 40 năm về trước, rằng
tiền kiếp không chừng tôi đã từng sinh ra và lớn lên ở đây.
Về phố cũ tôi trở về phố cũ
Đồi thông buồn gió vẫn lạnh hơi sương
đi ngang qua cúi nhìn con nước
hồ im thăm thẵm mộng bình thường.
Đó là
bốn câu thơ tôi đã viết lần đầu tiên sau hơn 25 năm trở về thăm nơi chốn mà
mình đã một thời lang bạt, tạm ghé qua - xưa tưởng là nó sẽ mãi thuộc về dĩ
vãng, của kỷ niệm, nhưng chẳng ai ngờ, có thể đây cũng là nơi tôi sẽ trở về -
khi không còn sức để đi - sống những
ngày còn lại của đời người. Đà Lạt mỗi năm mỗi thay đổi theo thời gian, đó là
điều tẩt nhiên, là lẽ thường tình; nhưng sau bao lần về thăm tôi thấy có một điều
thay đổi tuy âm thầm mà sâu sắc, khiến tôi trầm tư, suy nghĩ không biết sau này
nơi đây vẫn còn là nơi thơ mộng, lãng mạn và
người Đà Lạt vẫn còn lịch sự, dễ thương như ngày xưa. Chẳng riêng gì Đà
Lạt, từ miền Trung cho đến tận mũi Cà mau, đâu đâu cũng có sự hiện diện, cũng
nghe giọng nói của dân miền Bắc - mà từ xưa tôi vẫn biết sẽ có một cuộc di dân
như thế tất nhiên xẩy ra sau khi đất nước đã hòa bình. Tất cả đều phải theo cái
quy luật: ở đâu có sự tự do hơn, dễ sống hơn thì ở đó sẽ thu hút đông dân số
hơn. Một người xe ôm - dân
chính gốc ở đây - ngồi uống cà phê và
tâm sự với tôi, rằng người Bắc mới vào họ sống rất cần kiệm, kiếm được 10 đồng
thì họ chỉ tiêu có 6 hoặc 7 là nhiều nhất, trong khi đó dân Đà Lạt khá lắm là để
dành được 1, 2 đồng. Thành thử, khi gặp khó khăn và không đủ tiền để sinh sống,
dân Đà Lạt dần dà bỏ đi trong khi dân miền Bắc lại nương theo họ hàng - những kẻ
đi trước - sẽ dần dần trở thành số đông trên thành phố cao nguyên, thơ mộng
này.
Ấp Ánh Sáng năm 2009 (bên trái) và 5 năm sau, dẫy nhà phía bên phải
nay là cánh đồng
trồng rau, trồng hoa của thị xã, dùng cho những mùa lễ hội.
Cầu Ông Đạ về đêm
Một vài hình ảnh quen thuộc ở ĐL
Một vài hình ảnh
quen thuộc ở ĐL
Một
tên du khách chịu chơi và gan cùng
mình ở đồi Mộng Mơ...:)
HÀNH TRÌNH VỀ ĐÀ LẠT – II
Cả cuộc đời ta
lấy không làm có
đến cuối đời mới
biết có là không.
(tác giả vô danh)
Lên Đà Lạt mà không ghé thăm mộ người thân, nhất là
người mẹ vợ đáng thương, đáng kính của mình thì thật quả là vô tình, thất lỗi -
cho nên đó cũng thường là nơi đầu tiên vợ chồng tôi ghé thăm trước khi đi chào
gặp, thăm viếng bà con, bạn bè. Khi xưa hồi còn trẻ, tôi hay ghé ra Vũng Tầu và sau này là Nha Trang,
đứng trên bãi biển mà thấy đại dương và trời xanh bao la, để thấm cho cái thân
phận con người quá nhỏ bé chà là nghĩa lý gì cả, huống gì là đem so sánh với vũ
trụ và bao nhiêu giải ngân hà, hàng tỉ ngôi sao sáng trên trời. Bây giờ, mỗi lần
viếng thăm khu nghĩa trang, nó còn nhắc nhở tôi cái vô thường, ngắn ngủi của đời
người. Mà quả thật, một trong số những người có định mệnh ngắn ngủi đó là mẹ vợ
của tôi. Bà là người gốc Quảng nhưng mất ở Đà Lạt khi tuổi vừa chỉ mới 49 -
nghĩa là hơi ngắn cho cái kỷ nguyên văn minh, tiến bộ về y khoa và khoa học. Tôi dám nghĩ rằng ba vợ của tôi tuy bị mất
mát bao nhiêu tài sản lớn lao trong đời, nhưng có lẽ không có gì đau khổ, đớn
đau bằng mất đi một người vợ, một người mẹ duyên dáng, dịu hiền như người mẹ vợ
của tôi. Hồi hai đứa mới quen nhau một thời gian, thấy con gái mình xưa đến giờ
nhút nhát và khó kén chọn, lại có vẻ chịu đèn một tên Bắc kỳ cao lòng khòng, gầy
nhom; mẹ vợ tôi có lúc lo lắng, bảo trông tướng tôi lưng dài chắc có lẽ lười lắm,
sợ rằng con gái mình phải chịu cực, chịu khổ.
Sau khi gia đình chạy di tản từ Đà Lạt vào Sàigòn,
thấy tôi khệ nệ bưng một thùng đựng đầy đủ nồi niêu, xoong chảo để gia đình tạm
dùng trong lúc chờ thời; và tôi còn chịu khó mua bột gạo lức cho mẹ vợ tương
lai của mình ăn để chữa bệnh chân bị phù thủng, không tiêu hóa được nước sau gần
một tuần chạy loạn ăn uống thiếu thốn, thất thường. Đến lúc ấy thì mẹ vợ tương
lai của tôi mới cảm thấy bớt lo. Bảo cái thằng sao thật chu đáo. Trong tấm hìng
trắng đen dưới đây là ảnh kỷ niệm của gia đình nhà vợ chụp bên bờ hồ Xuân-Hương
vào khoảng năm 1967, lúc ấy TH. chỉ độ chừng 12 tuổi - mà trong cái truyện
ngắn "Ngộ Ái Nị", tôi có dùng tấm hình của vợ mình thuở đó ngồi với
con gấu bông, gán nàng cho cái nhân vật chính "Cẩm-Linh" trong trí tưởng. Đến lúc trước khi nhắm mắt lần cuối vào tháng
2 năm 1985, mẹ vợ tôi có than một câu rằng "nằm đây mà mình chỉ nhớ con TH.
!". Câu nói ấy thỉnh thoảng vẫn cứ ám ảnh trong tâm khảm của tôi một nỗi buồn trộn lẫn hối hận mỗi khi về thăm viếng
mộ, hay những giây phút bất chợt nhớ tới.
Một trong những nơi hai vợ chồng tôi thường hay đến ở
thường xuyên - bắt đầu từ năm 1999 - phải
nói là khách-sạn Châu Âu ở số 76
Nguyễn Chí Thanh, mà dân Đà lạt thường gọi là dốc Ngọc Lan, vì xưa con đường
này có một rạp hát lớn nhất của thị xã và rạp hát này mang tên Ngọc Lan. Hai vợ
chồng chủ cái khách-sạn này cũng là bạn
học cũ - mà Phước, tên người chồng, cùng là bạn học của TH. ở trường Lycee
Yersin năm xưa. Sở dĩ chúng tôi chọn cái khách sạn này phần lớn vì nó rất tiện
cho việc đi lại, nhờ nằm ngay trung tâm thành phố, đi bộ thăm bà con họ hàng và
đi đâu cũng tiện bằng phương tiện "lô ca chân". Khách-sạn Châu Âu này
có lẽ là cái khách sạn đầu tiên được cất lên sau năm 1975 và rất được khách du
lịch từ Âu Châu ghé đến vì Phước nói rành cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp, hiểu rõ
địa phương dễ như đọc trong lòng bàn
tay, vì hắn sinh ra và lớn lên ở đây. Cuộc
đời xẩy ra quả đúng như câu "vật đổi, sao dời", sau hơn bao nhiêu năm
thường ghé đến ở cái khách sạn Châu Âu quen thuộc, năm ngoái (2014) khi trở lại
Đà Lạt thì nơi này đã đóng cửa kín mít, ngoài có dán biển đề vỏn vẹn 3 chữ "Bán Khách Sạn" với số
điện thoại để người mua muốn liên lạc. Hỏi thăm thì được biết nó được bán với
cái giá rất "hời" - chỉ có 25 tỷ - và còn dễ dàng thương lượng được.
Nghe nói thì vợ chồng Phước đã về hưu và di chuyển về Sàigòn để tiện bề giúp
hai đứa con đang theo học Đại-Học ở đó.
(thêm một nạn
nhân của thời gian, một XQ Sử Quán nổi tiếng một thời ở ĐL nay đã không còn hiện
diện)
TH. còn có một người bạn
gái học cùng lớp và còn chơi thân hơn Phước, cũng có một khách sạn nho nhỏ ở gần
nhà thờ con gà, cho nên tuy có ở xa phố hơn chút xíu - chỉ chịu khó đi xuống
con dốc Ngọc Lan qua bậc thang cấp gần bên cạnh (hình kế bên) để xuống tới bến
xe đò cũ, băng qua cây cầu ông Đạo và leo lên con dốc nhà thờ Con Gà, hỏi thăm
ai tên Thu-Hương trong khu nhà Chung - hay thường gọi là xóm Xuân An - thì có lẽ,
chỉ những em bé chưa biết nói rành là không biết mà thôi.
Nhìn tấm hình cái cầu thang
đi tắt xuống bờ hồ từ trên con dốc Ngọc Lan làm tôi nhớ lại khoảng thời gian phải
gọi là thần tiên trong những ngày tôi mới lên Đà Lạt, vì cũng nơi này xưa có một
xe bán Phở rất ngon (hay là tại buổi sáng đói bụng, trời lạnh lại được ngồi húp
xì xụp tô phở nóng hổi), tôi thường ghé
ăn sáng, rồi gọi uống tách cà phê sữa nóng, ngồi nhìn xuống quang cảnh
nhộn nhịp của bến xe đò với những chuyến xe nằm ngoan ngoãn, chờ đợi giây phút
để lên đường - phần lớn là về Sàigòn, hay nhìn cảnh hồ Xuân Hương thưỏ đó vẫn
còn nhiều sương mù khi mặt trời còn ngái ngủ, dậy muộn khi mùa đông tới. Từ
trên đỉnh cao của con dốc Ngọc Lan này, tôi đã bắt đầu có những suy nghĩ về cuộc
đời, về thân phận của con người - thật khác hẳn với con người của chính mình
cách đó không quá sáu tháng, khi còn đang ăn chơi xả láng - mỗi tháng đóng cho
mình một đôi giầy mới, bộ quần áo mới và những dĩa nhựa 33, 45 tua - toàn những
bản nhạc ngoại quốc – Hit Parade - thịnh
hành nhất, và luôn có những buổi nhẩy đầm suốt đêm tới sáng.
Năm 2008, bốn thằng con lần đầu theo gia đình về
thăm Đà Lạt, chúng nó đều nghe xưa tôi
cũng từng giang hồ lên ở đây, nên tò mò muốn biết bố của chúng đã từng ở trọ
nơi nào, sống và đi học một mình ra sao. Tôi dẫn cả bốn thằng đi bộ từ trên con
đường Minh Mạng - nay gọi là Trương Công Định - đi xuống đường Nguyễn Biểu mà
dân quanh đây đều quen miệng gọi là “dốc
Nhà Làng” - chỉ cho chúng nó căn nhà chị của nhà văn Tưởng Năng Tiến,
nơi mà tôi từng thuê một căn phòng để ở trên hơn một tháng khi vừa mới lên đây.
Tuy chỉ ở một khoảng thời gian quá ngắn, nhưng đấy cũng đủ cho tôi - hơn 10 năm
sau - viết thành một truyện ngắn với tựa là "ĐÊM GIÃ TỪ PHỐ NÚI "
, để nhớ lại một thời lãng mạn đã trôi qua.
Dốc Hòa Bình
về đêm
Như tôi vẫn thường tâm sự, rằng bắt đầu từ những
ngày đầu mới lên Đà Lạt, tôi cái thú đi dạo quanh bờ hồ Xuân Hương vào buổi
sáng sớm tinh mơ - vì nhất là để được hưởng
cái không khí tuy hơi lạnh nhưng rất trong lành, thứ đến là trong cái tĩnh mịch
của ban mai tôi dễ cảm nhận những gì trong tâm thức bỗng trỗi dậy, sau một khoảng thời gian dài tiềm ẩn, chôn dấu
từ lúc tuổi còn thơ cho đến những năm mới lớn, mới biết nếm mùi đời. Trong buổi
sáng bình thường của một ngày nọ, khi tôi đã đi dạo hết một vòng bờ hồ và đang
trên đường băng qua cầu Ông Đạo, một cặp du khách có lẽ tưởng lầm tôi là dân địa
phương mới đi tập thể thao về nên chận lại hỏi thăm, nhờ tôi cho biết nên đi
chơi những đâu, chỗ nào,v.v... Tôi thản nhiên chỉ cho họ thấy chiếc xe buýt giống
như con voi đang rời bến để đi về hướng Trại Hầm. Từ xa, tôi đoán hai người du
khách này có lẽ chưa chắc đọc được bảng tên nên tỉnh bơ bảo:
- Ông bà cứ đến
bến xe phía bên kia đường, đón chuyến xe đò đi Trại Hòm, rồi từ Trại Hòm
thì kế đó là Hồ Than Thở và sau cùng là
Suối Vàng, thăm mộ Ông Hào… là những nơi nổi tiếng
nhất để du khách thường thăm viếng...
- Úi trời !
sao mà toàn những nơi nghe tên thấy mà lạnh
gáy ! nào là Trại hòm, hồ Than Thở
rồi tới Suối vàng...
Phải chập sau họ mới hiểu tôi chỉ muốn đùa chút
chơi, mà kể cũng lạ - đi đến đâu - từ Sàigòn ra đến Huế, thỉnh thoảng tôi cũng
bị người đi đường hỏi thăm, chỉ cho họ về đường phố, cứ làm như tôi là dân địa
phuơng chính hiệu con nai vàng ngơ ngác. Ngay cả trong chuyến đi vừa rồi ở Đà Lạt,
tôi cũng bị dân địa phương chứ chẳng phải du khách hỏi thăm, chỉ đường. Như thế
có lẽ sau này khi hồi hương về đây ở,
tôi sẽ dễ dàng hòa nhập với dân ở đây mà cũng có thể sẽ được bầu làm Tổ
Trưởng khu phố nữa không chừng ! Tôi phóng đại một chút cho vui về chuyện này
chẳng qua là vì tình cờ kỳ rồi gặp một bác mới đi bầu chức Tổ Trưởng trong xóm
về, bác bảo rằng chả ai muốn ra tranh cử cho nên chức vụ ấy lại thuộc về người
vẫn từng nắm giữ cái ghế "lãnh tụ" đó. Tôi cười hỏi bác, như vậy người
ta gọi bà ấy là "Tổ Trưởng hay Tổ Bà ?" và được bác vỗ mạnh vào vai,
cười ha hả nói "Gớm ! Cái cậu này
coi vậy mà tếu ghê ta ơi !"
Riêng cho một thằng bạn – HNS - đã sớm bỏ cuộc chơi.
HÀNH TRÌNH VỀ ĐÀ LẠT -III
Ở Việt-Nam, nói đến địa danh Đà Lạt thì đa số, ai
cũng nghĩ đến đó là một trong những nơi danh lam thắng cảnh rất hữu tình để du
ngoạn, và nhất là cho những cặp vợ chồng mới cưới lên đó để hưởng tuần trăng mật.
Con người ai cũng muốn đi tìm một người, một nơi chốn nào đó để đem đến hạnh
phúc cho chính mình. Khổ một điều là mỗi người định nghĩa chữ "hạnh
phúc" - hay thế nào là hạnh phúc - mỗi người một khác, mà nhiều khi, cái hạnh phúc của chính họ bây giờ cũng sẽ
khác, cũng thay đổi theo thời gian và không gian. Nếu ai đã từng mua nhà, xây
nhà hay sửa nhà có lẽ đã biết thế nào là tốn kém, nhọc sức khi mình mua lầm kiểu
nhà, thiết kế kiểu bếp - để sau khi dùng nó một thời gian ngắn lại thấy nó
không được như ý mình muốn.
Tôi còn nhớ vanh vách cái thời năm 1979, khi một người
bạn trước đây du học rồi kẹt lại ở Mỹ sau năm 1975, ngày nghe tin anh ấy vừa ra trường ngành Kỹ-Sư mà
đã có việc làm với số lương là $21,000.00 một năm, khi lúc đó lương tối thiểu
chỉ mới là $2.10/giờ. Tôi nghĩ bụng giá mà mình hàng năm được lãnh số lương như
thế cho cả chục năm, mình cũng sẽ rất ư là vui sướng, "hạnh phúc". Chỉ
vài năm sau tôi ra trường và cũng được số lương như thế, nhưng chưa đầy một năm
mà thấy không được lên lương là lòng y như là có chuyện chẳng vui. Thật ra, đấy
chẳng phải vì muốn có nhiều thêm tiền, nhưng đó cũng là cái thước đo cho cái
tài năng, sự đóng góp của mình cho công ty, mà nếu không được tăng lương thì chắc
có lẽ mình vẫn còn dở ẹc, hay thiếu xót ở một điểm nào đó. Thời may là năm nào
mình cũng được lên lương và nhiều tiền thưởng, nhưng cái gọi là đủ để "hạnh
phúc" thì cũng chưa thấy nó bắt đầu lộ diện, cứ như cái bóng ma ẩn hiện
khiến đôi lúc, tôi phải ngẫm nghĩ - nhớ lại cái thời còn lưu lạc, lang bạt ở Đà
Lạt - nơi mà ai cũng mong muốn dành dụm có tiền để lên thăm ít nhất một lần
trong đời, còn mình thì lại ở đó và đang đi tìm cái hạnh phúc, mà nhất là tìm
hiểu thế nào mới gọi là hạnh phúc mà ai cũng tìm kiếm. Lúc ấy, tôi mới hiểu rằng
định nghĩa về hạnh phúc thường thay đổi, chứ chân lý thì không, sẽ chẳng bao giờ
đổi thay. Bởi thế cho nên, lần về Đà Lạt năm 2008, trong lúc đi ngang những mảnh
vườn trồng rau ở ngoại ô thị-xã, tôi dừng xe đứng nhìn và chụp tấm hình (bên dưới)
- để nhắc nhở cho mình là chớ có đi tìm hạnh phúc mà phải hiểu thế nào là chân
lý của hạnh phúc, có như thế thì tâm hồn mình mới an, mới được tĩnh.
Sở dĩ nhìn tấm hình những mảnh vườn
rau xanh um khiến tôi chạnh nhớ cái chân lý mà khi xưa mình đi tìm, vì đã một
thời sống chung dưới một mái nhà với người bạn nghèo học cùng lớp - Hoàng Như
Sơn - ở cạnh những ô ruộng trồng rau xá lách xoong, chỉ đủ cho gia đình của Sơn
để bán sống cho qua ngày, nhưng đó lại là những ngày êm đềm, hạnh phúc nhất
trong cuộc đời của tôi.
Nói như thế không có nghĩa là từ đó
về sau tôi không có cái hạnh phúc nào bằng, nhưng chân lý chính là khi cái thời
gian hiện tại đã qua đi thì nó sẽ chẳng bao giờ quay trở lại, hạnh phúc nghĩa
là biết cảm nhận và tâng tiu cái mình đang hiện có, như câu tôi vẫn thường hay
dùng "có những cái bây giờ hiện tại, mai vẫn chỉ
là mới qua, mốt cũng vẫn còn là mới qua; mai sau nó sẽ trở thành dĩ vãng và kỷ
niệm", chúng ta thường
hay lưu lại trong ký ức và dễ nhớ lại những kỷ niệm đẹp, và muốn chôn vùi những
gì gọi là xấu xa, đau buồn nhất ở tận đáy lòng.
Hè năm 1973, sau khi ở Đà-Lạt được hơn một tháng, tôi trở về Sàigòn trong một
dịp cuối tuần để mang lên cái giá vẽ và những khung vải tôi đặt sẵn từ trước.
Đang ngồi trên chuyến xe đò chờ giây phút khởi hành, một thanh niên xa lạ từ
đâu bỗng bước đến hỏi chuyện:
- Xin lỗi, có phải anh
về SG phải không?
- Vâng.
- Tôi cũng thế, thấy anh trông có vẻ dân văn nghệ nên muốn làm quen,
để trò chuyện trên chuyến đi. Tôi tên Sơn.
Hắn đưa tay cho tôi bắt.
- Tôi tên Sinh, người
nam gọi là Sanh.
Được biết Sơn hôm đó
mang bó hoa Hồng về SG để tặng cho người yêu, một cô SV học ở trường Luật Khoa,
và khi nghe tôi nói lý do chuyến đi của mình. Sơn vỗ đùi tự khen: "Biết ngay mà! bạn có dáng trông rất nghệ-sĩ,
nhìn biết liền!". Tôi lúc đó nghĩ và cười ruồi trong bụng "Mẹ! tướng
tá mình gầy nhom, trông như chó ốm. Văn ghệ với văn gừng con khỉ!". Từ đó
Sơn trở thành thằng bạn thân đầu tiên ở ĐL. Hắn lớn hơn tôi gần hai tuổi, được
cha mẹ đặt tên là Hoàng Như Sơn, nghĩa là cao lớn như núi - nhưng Sơn lại
lùn tè, đứng cỡ chỉ một thước mốt. Có lần tôi bảo Sơn:
- Chả cần tao chấm tử-vi
gì ráo, số mày phải lấy
con vợ cao ráo, chân dài...
- Tại sao? Sơn tò mò.
- Này nhá, mày lùn và
tròn như hột mít, lấy một hột mít nữa thì con mày sẽ thành hột đậu, mà nó mà lấy
vợ hột đậu nữa thì sẽ sanh thằng cháu nhỏ như hột tiêu, rồi hai hột tiêu mà lấy nhau thì coi như triệt...tiêu
luôn! Nghe lời ông đi con.
Cũng hên là Sơn có tánh giống
tôi, cũng là dân Bắc Kỳ di cư , hai thằng đều có máu đùa dỡn, nghịch như quỷ -
có khi quỷ sứ chắc cũng phải chào thua - cho nên nó đấm vào vai tôi để trả đũa
cho câu sấm truyền đùa giỡn về tương lai và cái lùn của hắn. Có lẽ vì ông trời
bắt Sơn
mang cái tội phải lùn cho nên đã
đền bù
nó với những tài năng khác, thằng
này ăn nói rất có duyên, dẻo quẹo và hoạt bát. Ngoài ra hắn tự học,
chơi đàn guitar rất tuyệt mà tôi đã học từ
Sơn cách búng ngón tay, chơi những bản Carulli. Nhà Sơn ở đường Phạm Hồng Thái,
không xa Nha Địa Dư và nhà ga xe lửa,
và
có hai mảnh vườn trồng rau sà lách xoong mà cả nhà sống nhờ vào đó. Trước khi
quen với tôi, Sơn làm nghề cưa chữ để bán cho du khách làm lưu niệm,
mà những
tên, chữ hắn làm rất cầu kỳ và công phu cho nên mất nhiều thì giờ để nắn nót từng
lưỡi cưa và phải cẩn thận khi chà giấy
nhám. Thay vì tốn tiền phòng trọ ở một mình, Sơn rủ tôi dọn về
ở chung với gia đình hắn - nghe cũng có lý
nên tôi đã đồng ý, và nhờ ở chung mà
sau
khi quan sát lối làm việc của Sơn, tôi đề nghị Sơn thử cưa loại chữ mới, dùng
bút pháp
mà tôi viết theo kiểu chữ của
Trịnh Công Sơn, vừa tao nhã phóng khoáng, vừa đỡ tốn gỗ và cưa rất nhanh. Một
chữ kiểu cũ Sơn làm để bán bấy lâu nay bằng thời gian để cưa bốn, năm chữ kiểu
mới tôi vẽ. Không ngờ điều này lại đưa đến một sự thành công bất ngờ cho Sơn,
nó kiếm tiền dễ dàng và nhiều hơn từ dạo đó. Một điều trùng hợp giữa tôi và Sơn
là tôi vì ham chơi, ham nhẩy đầm cho nên thi rớt tú tài cho nên năm đó tôi phải
học lại lớp 12, còn Sơn không rõ vì lý do gì cho nên cũng phải học lại cùng lớp.
Ban đầu hai đứa rủ nhau ghi danh học ở trường Việt-Anh mà tôi còn nhớ một buổi
sáng sau khi mọi người đứng ở ngoài sân chào cờ, thầy Phỉ là Hiệu Trưởng đi
"duyệt binh" trong hàng ngũ học sinh, chọn mấy tên cao ráo để cầm cờ,
phù hiệu đại diện trường trong buổi diễn hành ngày kỷ niệm lễ Hùng-Vương. Xui một
điều là thầy HT "chấm" tôi với điểm cao ráo, bắt tôi phải cắt cái đầu
tóc dài mới "được" vinh dự đi diễn hành -
lúc đó chẳng phải tôi vì khoái làm hippy gì
ráo, mà đã chán ăn chơi, chán đua đòi một cuộc sống thác loạn, không tương lai ở
SG - nhưng tôi không thích ai bảo mình phải làm thế này, theo kiểu nọ. Tôi cười
ruồi hỏi ngược lại:
- Nếu tôi không cắt
tóc thì sao?
- Thì cậu không được chọn để đi diễn hành.
- Vậy hả. Tôi cũng chẳng thích đi diễn hành.
- Cũng không được. Cậu phải cắt cái mái tóc dị hợm đó tôi mới cho vào lớp.
- Xin lỗi thầy, tôi sẽ kiếm trường khác.
Thế là tôi bước ra khỏi trường ngay hôm đó, mà Sơn cũng
ba gai không kém, nó cũng có mái tóc dài gần bằng tôi cho nên hai thằng tỉnh bơ
sách cặp bước ra khỏi sân trường, không đợi thầy HT đuổi hay cãi cọ chi cho tốn
thêm nước miếng. Những tháng sau đó, trong khi tôi còn la cà học thử ở hai trường
khác - trường TH Bồ Đề và trường bán công Quang Trung mà tôi thấy cả hai đều dở
tệ. Khi gần đến tháng chót phải ghi danh học ở một trường để được hợp lệ cho kịp
kỳ thi Tú tài IBM năm 74, tôi theo Sơn - hắn đã "đầu quân" vào trường
Văn-Học
của thầy CBA, mà tôi chỉ vào lớp trong những ngày "lành tháng tốt", thường thì cúp
cua vào thư-viện gần nhà thờ con gà đọc sách, hay lang thang trên đồi cù ngồi
dưới gốc thông để ngẫm chuyện đời. Ban đầu, Sơn tưởng tôi là dân mồ côi, không
gia đình hay cha mẹ, đi giang hồ rồi ghé thích và ở lại ĐL vì nó chưa hề nghe
tôi nhắc chuyện về SG hay đi đâu thăm gia đình. Có nhiều hôm hai thằng nghèo mốc
đít, đói meo không tiền ăn sáng. Đôi khi cả nhà nó và tôi ăn cơm trộn khoai cho
no, rau thì món sà lách xoong vừa nấu canh, vừa xào tỏi với ớt ăn dài dài. Hôm nào
hên bán được nhiều thì có vài miếng gà kho gừng mặn chát, ăn cho uống nước nhiều
vào để căng bụng, đỡ tốn. Hoặc có hôm ăn ổi còn xanh mét trừ cơm, bị táo bón cả
mấy ngày sau. Một hôm, tôi rủ nó về SG
thăm nhà ở đường Yên Đỗ (nay là Lý Chính Thắng),
đối diện nhà nghị-sĩ kiêm chủ nhà băng Nguyễn Tấn Đời. Buổi sáng thức dậy ở lầu
ba, trên sân thượng là cái "giang san" phòng ngủ riêng của tôi, người
làm đã bưng đồ ăn sáng và cà phê để sẵn, Sơn nhìn tôi lắc đầu bảo "Mày, rõ là thằng khùng!". Từ đó trở
đi, khi trở lại ĐL để tiếp tục học, tôi bảo gia đình thường xuyên gửi tiền để
tôi đóng góp, giúp đỡ gia đình Sơn - ngoài những công việc phụ nó cưa chữ, chà
nhám, sơn phết đánh bóng và đem đi giao hàng cho cách sạp ở ngoài chợ. Mùa thi
tú tài năm đó, cả hai thằng đều may mắn thi đậu, mà nó đậu cao hơn tôi nhờ học
siêng hơn. Tôi còn nhớ là hai môn thi cuối cùng là môn Toán trắc nghiệm và môn
Pháp văn; dù làm chưa hết bài nhưng sau khi tính nhẩm cho những môn khác cộng lại,
tôi chắc mình đã đủ điểm nên nộp bài tàn tàn ra về. Hôm đưa mẹ tôi đi xem kết
quả ở SG, thí sinh nào đạt được tổng cộng trên 162 thì sẽ đủ điểm để đậu. Trong
lúc tôi hý hửng, thầm phục tài bấm độn, tiên đoán cỡ như Khổng Minh của mình vì
tôi vừa đủ khít khao 169 điểm, mẹ tôi dò bảng tên đọc mà muốn xỉu ngay tại chỗ
- không biết vì mừng hay vì bị tôi chơi một cơn ú tim! Dù sao đi chăng nữa, cái
thằng nghịch tử hai năm ở nhà thi không đậu, nay la cà ở phương xa, học lơ tơ
mơ thế lại mà được, mẹ tôi mừng hết lớn, nhất là thấy thằng con đã trở về nhà
và "tự dưng" lại chăm chỉ chuyện học hành.
Thêm một chuyện kể về thằng bạn. Sơn có cái tật là thích tán gái, và có lẽ để
che dấu cái mặc cảm "thiếu chiều cao, thừa bề ngang", bạ ai nó cũng
ve vãn tán tỉnh. Trên con đường đến trường VH, hai đứa thường hay gặp một cô bé
"má đỏ môi hồng" rất dễ thương mang phù hiệu của trường BTX. Tôi
thích chỉ lẳng lặng đi theo sau để ngắm, tưởng tượng rồi mơ mộng để làm thơ giải
trí tinh thần. Sơn thì gặp một thiếu nữ tuổi chừng 15, 16 xinh như mộng nên hắn
ta khoái bét tĩ, mê như điếu đổ. Cô bé biết hai thằng Bắc kỳ dê xồm, mắc dịch,
thỉnh thoảng như cái đuôi lẽo đẽo theo phía sau mỗi sáng cho nên có lúc hai
chân em đi lính quýnh, lạng quạng. Tôi về làm bài thơ và cho thằng bạn đọc
chơi.
Nhỏ cười con mắt có đuôi
chân đi hài đỏ, dáng người thanh thanh
nhỏ đi nón là nghiêng vành
anh theo chân nhỏ, nhỏ đành ngơ sao
thôi về dệt mộng chiêm bao
rằng mai đón nhỏ, cười chào làm quen...
SVT 1974
Sơn đọc bài thơ nghe chịu quá, bảo
cho phép nó ngày mai đi phía sau và đọc thơ cho cô bé nghe. Tôi ừ ào Ok và để
xem cô bé sẽ phản ứng như thế nào. Ai ngờ sau khi nghe thằng Sơn mắc dịch ngâm
khẽ bài thơ, cô bé quay lại nhìn hai thằng cười và khoe nguyên hàm răng...sún.
Tôi ráng nín cười để cô bé khỏi đau lòng, mắc cở - nhưng thằng bạn tôi lại đau
khổ gấp bội phần, vì người đẹp trong mơ của hắn đã làm hắn vỡ mộng ba sinh ngay
từ giây phút đó.
Cũng vào khoảng mùa hè năm 1973 đó,
trong một buổi sáng đi dạo quanh hồ Xuân Hương, tôi tình cờ gặp hai chị em Vân
và Thu; nhưng Thu là người nhận ra tôi, xưa từng học ở trường Văn-Học ở đường
Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ) do nhà thơ Nguyên Sa (Trần Bích Lan) và
phu nhân (Nga) làm hiệu trưởng. Thu bảo năm trước tuy học sau tôi một lớp nhưng
đã để ý biết tôi và người bạn tên Thạch học cùng lớp.
Thấy tôi nàng liền nhận ra ngay, và
sau đó hai chị em nhờ tôi làm hướng dẫn viên cho những ngày ở Đà Lạt. Tôi bán
cái cô chị cho Sơn - vì tuổi tác có lẽ
cũng chắc ngang bằng hắn. Không ngờ chỉ vài ngày sau, Thu bị cú gọi là tiếng
sét ái tình - y như câu ca dao "Đà Lạt đi dễ khó về, trai đi có, vợ gái về
có con", mà cũng may tôi thuở đó rất lơ tơ mơ về chuyện yêu đương,
chỉ trong phạm vi văn chương, thơ với thẫn mà thôi. Cô chị tên Vân cũng có vẻ
khoái thằng Sơn, đi chơi thường hay nắm tay nhau rất mùi mẫn. Tôi không biết
lúc đó mình vô tình hay ác ý, nhưng thâm tâm chỉ muốn Thu mang kỷ niệm thật đẹp,
thật lãng mạn của thời còn con gái, để mai này như câu hát "đến khi lấy chồng,
chỉ còn mối tình mang theo", và đó sẽ là cái kỷ niệm để an ủi,
xoa dịu tâm hồn nàng mỗi khi có chuyện buồn xẩy đến trong đời. Hôm chia tay trước
khi hai chị em trở về Sàigòn để vào trường ĐH Sư Phạm, tôi với Sơn đưa hai nàng
đi vào quán cà Phê Tùng, rồi dạo quanh phố trước khi trở về khách sạn. Dĩ nhiên
Thu đã cho tôi cái địa chỉ của nàng và bắt
phải hứa rằng nếu có về lại Sàigòn thì phải ghé thăm và tìm kiếm nàng. Tôi hứa
nhưng trong lòng biết mình đã nói dối, thôi cứ để thời gian sẽ xóa nhòa vết
thương lòng của một người con gái đã vội yêu, vội nhớ vì khung cảnh quá lãng mạn
của vùng đồi núi; còn lại chăng sẽ là những ngày đầy thơ mộng, một kỷ niệm mà
tôi nghĩ sẽ là những giây phút tưởng nhớ một thời đẹp nhất trong đời người con
gái.
(ảnh chụp với Thu trên sân Cù ĐL)
Nẫy giờ tôi toàn nói về chuyện ăn
chơi, lang bang với thằng bạn tên Sơn mà chưa hề đá động đến chuyện một mối
duyên tương ngộ đã đưa đẩy cuộc đời tôi hoàn toàn vào một ngã rẽ khác. Những
ngày cuối cùng trước khi trở về SG để vào học ĐH, Sơn rủ tôi đến dự tiệc của
người bạn gái cũ cũng vừa đậu tú tài. Cóc có mục gì hay hơn để đi chơi, tôi nhận
lời tuy chẳng mấy hứng thú gì cho lắm từ khi tôi bỗng thay đổi 180 độ, từ bỏ hết
những cuộc ăn chơi nhẩy đầm thâu đêm, suốt sáng gần một năm trước đó. Trong bữa
tiệc tôi rất ít nói, ai hỏi sao thì tôi trả lời thật ngắn gọn và được xếp ngồi
đối diện với TH và CNA, sau này mới biết cả hai đều là bạn của
An, tên cô gái bạn của Sơn. TH kể lại là đã gần năm, sáu năm mới gặp lại
An và được cô bạn mời đến dự tiệc. Ban đầu TH không tính đi, nhưng không
hiểu sao trong đầu như có tiếng nói bảo rằng sẽ gặp một người rất đặc biệt và
quan trọng, nhưng trong suốt buổi tiệc TH bảo chả thấy ai có vẻ gì là nổi
bật cho nàng chú ý, ngoại trừ một câu nói bâng qươ vô tình, nhưng rất thành thật
của tôi - sau khi nghe nói vài người có
ý định về SG để học - tôi bảo nếu ai muốn biết về đường đi nước bước của các
trường ĐH ở SG, tôi sẽ giúp. Chỉ có thế, và tôi cũng chẳng nghĩ ngợi gì sâu xa,
thậm chí ngay đến bây giờ - gần 40 năm sau tôi mới biết CNA cũng đã có
mặt trong buổi tiệc ngày hôm đó. Chẳng ai ngờ cái buổi tiệc cuối cùng trước khi
rời ĐL đó lại là một khúc quanh quan trọng nhất trong đời tôi, và nếu TH
đã quên khuấy hoặc không tin vào lời tôi
hứa thì cái "khúc quanh định mệnh" này cũng đã chẳng xẩy ra. Thỉnh
thoảng hồi tưởng lại, tôi thấy có hơn 1001 lý do để mà chúng tôi đã không có dịp
"đấu tranh" với nhau hơn bốn thập-niên.
SVT
HÀNH TRÌNH
VỀ ĐÀ LẠT – IV
Ai đã từng ở Đà Lạt mà không
hề biết nơi gọi là Nguyệt Vọng Lầu thì quả thật là người cù lần, cả đẫn nhất
thị-xã, cho dù người ấy không hảo ngọt - không thích ăn chè - nhưng ít nhất
cũng phải một lần ghé lên phố chơi. Tuy đã từng đi ngang qua quán chè này đã
bao lần, nhưng tôi chưa hề một lần ghé, vì xưa chỉ có 1 tiệm chè mà tôi thường
hay vào ăn, đó là tiệm chè Dạ Thảo cũng nằm phía trên con dốc Minh Mạng này -
nay đã không còn từ sau năm 1975. Khi theo đứa em trai lái xe trở lại Đà Lạt
lần thứ nhì trong năm 2014 vừa qua, một chuyện mà từ trước đến giờ chưa hề làm
- chẳng qua là vì sau bao nhiêu chuyến xuôi ngược Nam-Trung-Bắc và đã suy nghĩ
kỹ lưỡng, vợ chồng tôi chọn Đà Lạt là nơi mình sẽ quay về và sống trong những
ngày còn lại - khi không còn sức để mà làm những chuyến bay ngàn dậm, kéo
dài gần như cả nguyên ngày trên mây.
Cuộc hành trình lần này là để xem xét về vấn đề thị
trường đất đai, nhà cửa ở Đà Lạt hiện nay ra sao - có bị "đóng băng",
bán không chạy - như hiện tình chung cho cả nước. Do đó, lúc đi ngang qua tiệm
chè Nguyệt Vọng Lầu này, thấy tấm bảng đề chữ "BÁN ĐẤT", sẵn cái máy ảnh
trong tay và lười ghi những chi tiết vào cuốn sổ, tôi chụp đại một tấm làm tài
liệu để sau này nếu muốn gọi liên lạc với người chủ miếng đất rao bán. Xưa
không biết bao nhiêu chàng Võ Bị, với
cái phù hiệu Alpha mầu đỏ đeo trên vai, trong bộ đồng phục trông thật oai phong
oai vệ - cuối tuần thường đưa những tà áo dài tha thướt vào quán này để tâm sự
và chỉ cần ngồi nhìn môi nhau cũng đủ thấy cái vị ngọt ở đầu lưỡi. Bây giờ tôi
không biết quán này còn hoạt động nữa hay không, sao lại treo cái bảng bán đất
nơi cửa sổ che cái tầm nhìn xuống con dốc ở phía dưới thay vì ở một góc khác.
Ngoài những tiệm chè, tiệm bánh, và các quán cà
phê - như quán cà phê Tùng, Tao Đàn,
Hương Sơn hoặc Hạnh Tâm bên bờ hồ - vào những ngày cuối tuần hay những dịp lễ
thường đông khách, ai lên Đà Lạt phải một
trải nghiệm ít nhất là một lần, đứng hoặc
ngồi lê la trên các vỉa hè ở góc đường Minh-Mạng, Tăng Bạt Hổ để gọi uống một
ly sữa đậu nành thật nóng hổi, đi kèm với dăm ba cái bánh Xu, bánh Cốm, bánh Đậu
Xanh, v.v…nhìn thiên hạ, ông đi qua bà
đi lại - hay lãng mạn hơn là nhìn những cặp nhân tình ôm nhau đi khung trời về
đêm giá lạnh. Bảo đảm, đi một lần rồi bạn sẽ cảm thấy ghiền, thấy nhớ khi rời
xa cái phố núi đầy sương với những cái kỷ niệm ấm cúng đó.
Nhưng sự thật thì bạn cũng phải nên cẩn thận, đề
phòng vì bây giờ nghe nói có những người mua loại bột đậu nành pha, hay làm
toàn bằng chất hóa học sản xuất từ Trung Quốc, uống vào sẽ thấy vị cũng không
khác chi mấy nhưng dĩ nhiên rất là độc hại. Nếu là một phóng viên, nhà báo ở
đó, chỉ cần giả vờ hỏi mua lại bã đậu nành để đem về cho heo ăn, xem người chủ
quán sẵn sàng bán thay vì đem đi đổ rác. Nếu họ không có một số lượng bã nhiều như sữa đậu nành họ bán, ít nhiều gì người ta
đã lợi dụng lòng tin của khách hàng, đi con đường tắt để kiếm lời, quên đi cái
luật Nhân Quả cho mai sau.
Nếu như bạn vẫn còn đói bụng, thích những món ăn vặt
và không muốn vào nhà hàng vì sợ chặt chém, không ngon, hay chẳng có cái không
khí vui nhộn, tấp nập thì mời bạn ghé sang khu chợ Hòa Bình, nơi có bậc thang cấp
dẫn xuống khu chợ dưới mà ban đêm nó thường
trở thành khu ẩm thực cho dân địa phương và du khách có máu liều, muốn thử những
món ăn lạ. Tôi tình cờ bắt
gặp một cô gái có một nụ cười thật tươi, ngồi bên cạnh vừa gọi món ăn, vừa giải
thích cho anh chàng ngoại quốc - bạn hay là người yêu tôi chẳng rõ, vì đứng
phía xa chụp lại với cái ống kính telé. Chàng trai ngoại quốc này tay đang cầm
cái bánh "Pizza Đà Lạt" - một
sáng kiến rất thịnh hành hiện nay ở đây mà vật liệu chỉ là cái bánh tráng với
1, 2 cái trứng gà đánh ra và trải đều trên bếp than, nướng với những gia vị như
hành lá, tôm khô và có khi cả xúc xích thái mỏng nữa. Nhìn đôi bạn hay đôi nhân
tình này ngồi cạnh bên nhau ăn uống, thì thầm nói chuyện mà thấy lòng chợt thở
dài, tiếc cho cái thời vàng son như thế của mình mới đó mà đã qua tự bao giờ, đã phôi phai lùi dần vào
dĩ vãng.
Phải thừa nhận rằng ngay từ năm 1999
- lần đầu tiên trở về thăm lại Đà Lạt cho đến giờ, tôi chưa hề gặp một người ăn
xin ở cái thị xã nhỏ bé này mà tôi từng nghĩ, có lẽ tại cái lạnh khiến cho những
người không gia cư, không nơi nương tựa phải tha phương đi những chốn mà khí hậu
ấm áp hơn, dễ sống hơn - như ở Sàigòn chẳng hạn. Chứ đêm mùa đông ngủ ngoài trời
ở đây thì chỉ có nước lạnh cóng, có khi lạnh thấu xương khó mà chịu nổi. Vậy mà
sáng hôm nay, lúc đi bộ leo lên ngọn đồi – con đường mang tên Lê Thị Hồng Gấm
- nơi khi xưa có Trung Tâm Tạm Giam, tôi thấy hai người
đang nằm co quắp ngủ say trong căn chòi lót gạch với mái ngói xây cho du khách
dừng chân, đứng nhìn quang cảnh hồ Xuân Hương ở phía dưới. Không biết đây có phải
là hai người say rượu nên cóc cần biết trời lạnh hay không, nhìn quanh tôi chẳng
thấy vỏ chai bia, hay chia rượu nào, hy vọng họ chỉ ghé tạm qua đây rồi sau đó
lại lên đường xuôi nam.
Cuối bờ hồ cách chỗ hai người này nằm không xa, có một miếng
đất mà người ta quảng cáo là "đất vàng" - đang cần bán
mà mỗi mét vuông chỉ có 140 triệu đồng - nghĩa là 14 tỷ đồng cho 100 m2
- đủ để xây một mái nhà tranh nho nhỏ cỡ 5m x 20m. Uổng một điều là người ta
không cho câu cá trên hồ Xuân-Hương, chứ có miếng đất và xây cái nhà ở đó, mỗi
sáng sách cần câu xuống kiếm vài con cá về chiên hay kho, coi bộ cũng dư sức sống
qua ngày.
Ở Việt-Nam có một trong những điều vô cùng nghịch lý, đó là số
thu thập bình quân của người dân trong nước không tới $3 triệu đồng một tháng -
hoặc $36 triệu cho một năm - theo thống kê thì gần như thấp nhất ở Đông Nam Á,
thế mà giá nhà cửa, giá đất thì lại chẳng thua gì ở bên Mỹ; nếu tính theo kiểu
dân nghèo ở Mỹ với số lương bèo nhất là
$9/giờ - nhân cho 2010 giờ cho một năm và theo hối xuất là 1 US = 22,000 đồng
Việt - thì họ cũng quơ về được $398 triệu đồng tiền Việt, vậy mà đa số vẫn phải
đi ở thuê, ở chung chạ mướn phòng. Nhìn cái bảng bán nhà với chữ "Giá Rẻ"
trong tấmhình phía dưới. Giá cả toàn bạc TỶ, toàn cỡ ông lớn và đại gia chỉ có
thể tung tiền ra mua mà thôi.
Nói cho cùng, Viện Giám Sát và Thống Kê ở Viêt Nam kể ra có lẽ
cũng thành thật và đưa ra con số chính xác, chỉ dùng số lương thật sự được
lãnh, kiếm đuợc từ mồ hôi, nước mắt của mọi người - từ quan lớn cho đến dân
quèn, cho nên con số lợi tức thu thập bình quân hàng năm mới thấp đến thế, hơi
đâu mà tính thêm ba cái chuyện lẻ tẻ như bôi trơn, phong bì, cắt xén...chứ nếu
cộng lại hết thì có khối gì những tỷ
phú, đại tỷ phú ở Việt Nam nên đất đai, nhà cửa mới bị giành giật, mà có một thời
leo giá đến chóng mặt.
Nhân tiện nói về chuyện đất đai nhà cửa ở Việt nam, hiện nay
từ Đà Nẵng, đến các tỉnh ở miền Tây - đâu đâu cũng thấy mọc lên công trình xây
dựng - gom tất cả các trụ sở hành chính (xưa gọi là công sở) - về một nơi, với
một lý do rất chính nghĩa, chính đáng đó là để tiện việc cho người dân đi làm
thủ tục đủ mọi thứ giấy tờ ở một nơi, không phải chạy đôn chạy đáo rồi lại chầu
chực cả ba phương, bốn hướng. Ở Đà lạt cũng nằm trong cái kế hoạch đó cho cả nước.
Đứng từ phía cổng vào của Ấp Ánh Sáng năm xưa - nay đã chẳng còn - tôi chụp tấm
hình 5 cái tòa nhà mầu trắng ở trên đồi - ngay trên con đường Trần Phú, nằm ở
hướng phía trái của nhà thờ Con Gà - vừa xây xong và mới khánh thành cách đây một,
vài tuần. Sự thật thì người ta muốn vẽ thêm chuyện, thêm công trình để có giúp
bao nhiêu người bỗng trở thành tỷ phú với một vài chữ ký, còn những cơ sở hành
chánh cũ thì sao? thì lại thuộc về tay của người nào thì ai cũng dư biết.
nhà ga Đà Lạt
Rồi trong một lần trong chuyến đi xem đất đai, tôi tình cờ tạt
ngang qua khu nhà ga, nên ghé vào xem sự đổi thay của nơi chốn mà ngày xưa mình
thường ngang qua khi còn ở thuê một căn phòng ở cư Xá Nha Địa Dư, nơi ba chị em
Dung, Thanh và Mai đã ở. Ga Đà Lạt bây giờ đã được trùng tu, sửa sang lại nên
trông cũng tươm tất, ít còn cảnh hoang tàn, đổ nát như ngày xưa, vì bây giờ nhiều
du khách Âu Châu muốn đến xem cái văn hóa và công trình của người Pháp xưa đã để
lại và cũng là nơi bắt đầu có chuyến xe lửa dành cho khách du lịch, mỗi ngày 3
chuyến lên xuống từ Đà lạt xuống Trại Hầm.
Trước cổng vào nhà ga vẫn còn những hàng quán nhưng bây giờ
nhiều hơn xưa. Tôi nhớ xưa có cái tiệm phở tên Phở Phi Thuyền, sau khi tôi bán
được bộ đồ Vest còn lại từ thưỏ còn ăn chơi - có vài ngàn bạc rủng rỉnh trong
túi, tôi và Sơn rủ nhau vào tiệm - mỗi thằng quất hai tô phở "Xe Lửa"
, nghĩa là tô lớn - vì đã lâu chưa được vào tiệm kéo ghế ngồi ăn những món
"xịn" như thế, cho dù mỗi tô phở hình như chỉ chừng $30 - $50 đồng bạc.
Hôm đó hai đứa ăn no căng diều hâu, đến nỗi bà chủ tiệm tưởng như hai thằng chết
đói từ trên rừng mới xuống phố.
Ngày hôm sau tôi trở lại khu nhà Ga, sau khi đã đi một vòng
ghi lại hình ảnh của Đà Lạt bừng tỉnh
trong cảnh bình minh, tôi nhờ bác tài xế xe ôm đưa tôi đến con đường Nguyễn Du,
nơi xưa tôi và Sơn đã một lần ghé chơi nhà của thầy Hiệu-Trưởng Chử Bá Anh. Bề
ngoài trông cái biệt thự ấy vẫn không gì thay đổi và có vẻ như hoang vắng,
không ai ở khiến tôi rất lấy làm ngạc nhiên, vì
với cái diện tích và địa điểm của biệt thự này phải là loại "đất
vàng", cỡ ít nhất chục tỷ bạc - thế
nào cũng bao nhiêu kẻ ngắm nghé, muốn làm sở hữu, và xây cất lại với kiểu biệt
thự to lớn, bề thế hơn.
Về nhà mở phóng lớn tấm hình qua
Photoshop, tôi mới thấy có cánh cửa đang
mở và bên trong một chiếc xe tay ga -
nhìn đâu như hiệu Honda Attila - với bảng số của tỉnh Lâm Đồng số 49 Phường 3 mà chỉ cần lên Công An tỉnh hỏi vài câu sẽ biết ngay ai là chủ của chiếc xe. Có lẽ kẻ
ở tạm đây không muốn sự chú ý của người ngoài, nên họ đã để yên cái sofa rách
tơi tả ở hiên nhà; nhưng nhìn sân trước trông sạch sẽ, quang đãng - không một
ngọn cỏ dại mọc, và cánh cửa mầu xanh khép kín phía nhà sau vẫn còn nguyên vẹn,
như đã được ai đó trưng dụng và bảo trì thường xuyên, không bị lệch lạc hay rỉ
sét. Con đường Nguyễn Du ngày xưa trong trí tưởng chỉ là một con đường nhỏ với
hàng thông cao ngất, rậm rạp hai bên đường, nay đã được mở rộng thêm, chưa kể
là có một nơi nghỉ dưỡng (resort) rất sang trọng mới mọc lên phía bên trái,
cũng trên con đường này từ phía bờ hồ đi vào.
bao năm lưu lạc xa đất nước
chàng lên non tìm lại thầy xưa
phong cảnh vẫn còn như thưở trước
thầy đã yên mộ một chiều mưa.
Mới hơn một tháng trước, tôi còn đứng trước căn biệt thự này,
nghĩ đến bốn câu thơ trong đầu nhớ đến
người thầy của mình mình ngày xưa, vậy mà giờ đã tiễn đưa thêm thằng bạn học một
thời cùng với mình lang bạt, ngao du ở thành phố cao nguyên - nay đã nằm dưới mộ
sâu; mai này rồi cũng đến phiên mình chẳng khác gì như đám mây trắng đang bay ở
trên trời, thoáng chốc sẽ tan vào hư vô.
SVT 01/12/2015
HÀNH TRÌNH VỀ ĐÀ LẠT - V
Bất cứ
cuộc hành trình nào, cũng như một đời người, đều có khởi nguồn và trạm dừng
chân cuối cùng. Tôi sinh ra ở giữa lòng Hà Nội, theo bố mẹ lang bạt vào Nam và
hầu như hơn 20 năm lớn lên và trưởng
thành ở Sàigòn - chỉ một khoảng thời gian ngắn 73-74 là tôi đã tình cờ lên và
ngụ ở Đà Lạt - rồi sau đó theo làn sóng di dân ra nước ngoài năm tháng Tư năm
1975.
Nếu bảo
rằng đương nhiên tôi phải có nhiều kỷ niệm ở Sàigon hơn tất cả mọi nơi thì
không sai mà cũng chẳng là đúng hẳn. Lý do là vì như người ta thường nói
"phẩm hơn lượng", nghĩa là những gì đáng nhớ vẫn là những kỷ niệm
quan trọng và mang ấn tượng thật sâu đậm,
còn lại chăng phần lớn của dĩ vãng cũng chẳng có gì nhiều để đáng nhớ, thêm vào
đó Đà Lạt đã là nơi đưa tôi đã gặp một người và đã đưa tôi vào một khúc quanh lớn
nhất trong đời, chính vì thế mà tôi thường hay nhắc , hay kể về những chuyện kỷ
niệm ở Đà Lạt hơn là ở Sàigòn, và nhất là đó sẽ là bến đỗ cuối cùng của đời
mình.
Chuyến về
Đà Lạt vừa qua đã khiến vợ tôi gặp lại được người bạn học cũ sau hơn 45 năm
không gặp, còn tôi - tôi cũng không ngờ có ngày gặp lại Chi, một "nhóc
tì" hàng xóm của Hoàng Như Sơn năm đó hình như Chi cũng chỉ vừa mới 12, 13
tuổi, và gặp luôn cả Dung - cô bạn học cùng lớp mà không hiểu sao, xưa tôi vẫn
nghĩ cũng chỉ là một "cô bé má đỏ môi hồng" học cùng trường và cũng
là em họ của Sơn.
Ngày gặp
lại "bé" Dung ở quán Cà phê Rose, Dung nay đã là bà nội, bà ngoại
nhưng tôi không thể nào không nhận ra vì Dung vẫn còn cái nụ cười hiền lành và
đôi má phúng phính, đỏ hồng như ngày xưa. Rất ít người mà từ bé tới lớn - tuy
qua bao nhiêu thập niên - mà vẫn không hoàn toàn thay đổi, vẫn có thể nhận ra
sau bao năm xa cách, Dung là một trong những người thuộc loại người này, và
ngay cả đến giọng nói cũng thế. Ngày hôm đó, tôi đã lỡ hẹn với thằng em nên
không có nhiều thì giờ để trò chuyện với cô bạn học cũ, đành hẹn lại năm sau,
khi tôi sẽ trở lại không những lần nữa và nhiều lần mai sau.
Nhờ
Dung cho tôi biết là Chi - cô bé hàng xóm năm xưa - vẫn còn ở Đà Lạt với chồng
và một cô con gái, ngày hôm sau tôi ghé
đến khách sạn mà Chi hiện đang làm ở đó, nghề của Chi bây giờ là cai quản,
trang hoàng hoa cho toàn thể khách sạn, nhất là trong những dịp lễ, ngày hội thảo
của các công sở, v.v...Hôm trước nói chuyện với Chi qua điện thoại, trong giọng
nói ấy tôi nhận ra nỗi vui mừng trộn lẫn cảm động vì không ngờ có ngày tôi đã
tìm và gặp lại cô bé nhóc tì hàng xóm ngày xưa.
Mấy lần đầu về Đà Lạt, tôi bỏ công lái xe lòng vòng đi tìm lại nhà của
hai "nhóc tì" này nhưng hàng xóm bảo không ai biết hay đã dọn đi đâu.
Ai có ngờ tôi đã đi tìm lộn địa chỉ mà Dung bảo sau năm 75 đã thay đổi, mà nhất
là tôi đã quên mất đoạn đường vào nhà Sơn - chứ từ con đường Yersin rẽ vào Phạm
Hồng Thái tôi còn nhớ rõ là qua cây cầu nhỏ rồi đến khúc quanh có một căn nhà
trồng những cây hồng mà đến mùa thu hoạch thì trên cây đầy những trái hồng to lớn,
nặng trĩu đầy cành - rồi đi một đoạn nữa sẽ đến căn nhà của Sơn, ngay cạnh bên
căn nhà của gia đình Chi - bố của Chi là chú Giảng, tài xế cho TT Nguyễn Hợp
Đoàn thuở bấy giờ. Chi kể lại đó là những
tháng ngày tuy gia đình sống trong cảnh nghèo khó nhưng ít ra vẫn được bình an
và hạnh phúc, mang lại đến nhiều kỷ niệm tuổi thơ êm đềm trong lòng.
Trong cuộc
đời, buồn vui luôn lẫn lộn. Mới ngày nào gặp lại người bạn học cũ và hai cô
hàng xóm năm xưa, tháng sau đã nghe tin Hoàng Như Sơn đã qua đời. Hạnh phúc và
khổ đau thường luôn đi với nhau, giống như bất cứ loại phương tiện di chuyển
nào mà con người đã sáng chế - như chiếc xe đạp, xe hơi và ngay cả đến xe bò
cũng phải có cách để tăng tốc độ và cái để thắng. Đau khổ là cái bàn thắng để
con người có lúc phải chậm lại, tạm dừng chân - đừng để mình lỡ đi quá trớn mà
quên đi những nguy nan còn rình rập ở phía trước, vì đường đời chẳng bao giờ bằng
phẳng, yên ổn mãi. Tôi còn nhớ những tháng ngày đầu tiên ở Đà Lạt, đó là những
giây phút thần tiên nhất trong đời của tuổi thanh niên, nhưng tôi biết chắc chắn
nó sẽ không mãi mãi tồn tại, như con đường thẳng nào rồi cũng phải có ít nhất một
khúc quanh. Ngay lúc đó tôi đã linh cảm đây cũng là một khúc quanh lớn trong đời,
nhưng không thể nào hình dung nổi nó đã quan trọng và sâu đậm đến mức nào, cho
đến khi lần trở lại Đà Lạt trong chuyến đi hai năm - 2012 - trước đây.
Một trong những ngày xa xưa khi còn đi tìm hiểu thế nào là đau khổ, thử thách
đang chờ đợi mình phía trước mặt, tôi tình cờ được hội kiến một nhân vật rất bí
ẩn và có những khả năng mà có người từng ví như là Khổng Minh - Gia Cát Lượng của
thời Tam Quốc Chí. Được biết qua một thông tin của một nguời bạn làm báo
chí, người sĩ quan được nhắc đến này mang cấp bậc Trung Úy , nghe nói là một
trong những sĩ quan cố vấn, tùy tùng cho Tỉnh Trưởng ĐL, vì được giao phó, nhờ
"giữ dùm" bởi lá thư của một vị tướng tư lệnh, sau chiến dịch Hạ
Lào 1971(còn gọi là Chiến dịch Lam Sơn) - khi vị tướng này được tin là miền Bắc
đã treo giá $5 triệu đồng (tiền VNCH thời bấy giờ) - còn sống hay chết - cho
cái mạng của người sĩ quan tuy tùng này. Một trong những câu trả lời của viên
sĩ quan này cho câu hỏi của tôi là bao giờ chiến tranh Việt Nam mới chấm dứt
thì anh ấy bảo rằng "sẽ sớm thôi, nhưng từ Bắc chí Nam sẽ phải gặp nhiều
gian truân, đau khổ". Tôi không hiểu ý nghĩa của câu trả lời này cho đến
khi mình được an toàn ở trên chuyến tầu Green Wave, đem tôi rời khỏi Việt-Nam
trên đường đang vào hải phận Phi Luật Tân ngày 28 tháng 4, 1975 - mới biết rằng
nếu miền Nam có thắng cuộc, chỉ mất vài năm - hay cùng lắm là một thập niên -
thì cả nước có lẽ đã chẳng đối diện với những khó khăn và vất vả vẫn còn kéo
dài mãi cho đến giờ phút này.
Trước
ngày tôi trở về Sàigòn để theo đuổi bậc Đại-Học, người Trung Úy này đã tặng tôi
cuốn sách "Học Thuyết và Tư Tưởng Chính Trị của Quản Tử", và bảo rằng
rất tiếc là tôi đã không còn ý định theo đuổi chuyện chính-trị, vì theo anh tôi
có những cá tánh và kiến thức - biết thế
nào là một chính trị gia - mà quan trọng hơn hết, khi tôi biết thế nào là
"khi như rồng, khi như rắn" - một triết lý về chính trị, một cái
nhìn tổng quát nhưng sâu sắc về đời người
- của Quản Tử mà hơn 10 năm sau tôi mới hiểu thấu đáo ý nghĩa của nó. Có thể
nói, người sĩ quan này là người đã ban tặng cho tôi một cái la bàn (compass)
dùng để giúp tôi định hướng, và một cái gương soi để hiểu những góc cạnh mà người thường ít khi nhìn thấy - nói chung,
đã dẫn đưa tôi vào một khúc quanh khác của cuộc đời.
Nghĩ
cũng lạ, nếu nói về phương diện địa vị thì giống rồng thường ở trên vị trí cao,
còn rắn thì luôn luôn ở dưới đất, thấp hơn nhiều. Nếu dùng hai quốc gia trên thế giới để biểư tuợng, so
sánh một cách đại khái (trên mọi phương diện - văn hóa, quân sự, kinh tế...) mà
chúng ta đã từng sống, từng trải qua thì có lẽ Hoa Kỳ và Việt-Nam sẽ là hai quốc
gia mà tôi muốn nói đến. Tạm gạt qua một bên cái huyền thoại dân Việt là dòng
giống "con Rồng, cháu Tiên" (vì nếu quả thật là như thế thì tôi cũng
chẳng biết có bao nhiêu loại Rồng, mà chẳng lẽ lại có loại rồng thật dỏm trên
cõi đời :) . Tôi không biết, mà cũng chẳng
quan tâm gì về những người Việt kiều khác đã, đang và sẽ quyết định chọn Việt-Nam
để về hưu, dưỡng già. Tôi cũng dư biết rằng sẽ có hai quan điểm tương phản: đồng
ý và chống đối về cái quyết định ấy, vì đó chẳng qua cũng chỉ là những cái gọi
là cái Âm-Dương (hay "Rồng Rắn") thường đi đôi trong mọi vấn đề -
không bao giờ tách rời khỏi nhau có thế thôi. Ngoài ra, theo cái triết lý hay
chiến lược của Quản Tử thì con rồng bay cao mãi cũng sẽ có lúc đáp xuống để nghỉ,
còn giống rắn lúc yếu nhất - thất thế nhất - là lúc nó đang lột da để có một lớp
da mới hơn, già dặn và thâm sâu hơn. Khi còn được như "rồng" thì phải
hành động như giống rồng, khi mình như con rắn đang lột da, bắt đầu dần yếu đuối
thì phải chuẩn bị chốn ẩn náu, nương thân. Tôi thấy có những người tuổi đã lớn,
thay vì phải buông bớt những nhọc nhằn, họ lại đeo thêm những gánh nặng khác -
như mở mang, khuyếch trương thêm cơ sở thương mãi, sản xuất, v.v...giống như
người đang cố gắng bơi ngược dòng, chẳng mấy chốc cũng phải chóng buông xuôi, vội
vã vứt bỏ những công lao vừa tạo dựng một cách thật phí uổng.
Nẫy giờ
tôi nói nhiều về những thứ có vẻ như lung tung,chẳng liên quan, dính dáng đến
cái đề tài "Hành trình Về Đà Lạt", nhưng thực ra đó mới chính là những
nguyên do đã đưa tôi đến việc gọi là tìm về cội nguồn, mà nguồn gốc đây chẳng
phải là nơi mà tôi đã sinh ra hay đã lớn lên, mà là nơi đã nẩy sinh trong tôi
những khái niệm, chân lý khác thường về một đời người . Trên con đường lên Đà Lạt
chuyến đầu trong năm ngoái, tôi đã gặp một ông từ California đi cùng với cô em
gái từ Sàigòn , và ông kể là ông đã về hưu được vài năm, vợ ông chưa đến tuổi
hưu và đã dùng hết những ngày nghỉ cho nên đã không tháp tùng theo ông về Việt-Nam
chuyến này. Hỏi ông nếu có sự chọn lựa, thì ông sẽ thích được về hưu ở đâu thì
ông ấy bảo rằng đương nhiên sẽ là ở Việt-Nam ; không như nhiều người khác sẽ chọn
tiểu bang California, vì đó là nơi họ sẽ được hưởng mọi quyền lợi - một lời hứa
của chính phủ - cho những kẻ đã từng đi làm và đóng thuế sau bao thập niên. Tôi
nghĩ rằng về phần tâm linh, ai cũng muốn "hoàn toàn" đặt tin tưởng
vào Chúa, vào Phật (hay những vị thần linh nào đó) mà về phần vật chất thì có lẽ
họ tin tưởng nhiều hơn về lời tuyên bố của chính phủ địa phương đã hứa với họ,
vì nghĩ khác hơn sẽ mang đến nhiều nỗi lo âu, khúc mắc cần phải dùng đến đầu óc
để nghĩ cách giải quyết. Ít người có cái tánh tò mò và đa nghi - thuộc loại bậc
thầy của Tào Tháo - như tôi cho nên chuyện đó cũng chẳng lấy gì làm lạ. Đó là
tôi chưa đề cập đến chuyện sự thật đã bị
che dấu, dư luận và tin tức bị bóp méo cả hàng chục năm nay khiến con người trở
thành ù lỳ, sống thụ động như máy móc tìm vui trong những trò chơi, máy móc điện
tử mới phát minh ra mỗi ngày. Hơn 6 thập niên trước, người ta tính rằng cứ mỗi
người về hưu thì sẽ có đến 25 người đi làm để nuôi họ; rồi con số ấy dần dà thu
hẹp cho đến cái viễn ảnh trong một ngày rất gần, chỉ cỡ 3 người đi làm đóng
thuế
sẽ phải nuôi 1 người ăn lương hưu trí - cứ như thế thì (1) một là thuế má rất cao cho những người còn đi làm, (2) hai là lợi tức
hưu trí sẽ bị cắt giảm rất nhiều - có thể hơn 1/2 - giải pháp thứ ba (3) là quỹ hưu trí phải vỡ nợ,
xóa sổ làm lại từ đầu mà kết quả cũng chỉ là quyền lợi bị cắt giảm trầm trọng;
hoặc đó sẽ là sự tổng hợp của chuyện người đi làm phải đóng thuế cao hơn và người
hưởng lợi thì sẽ bị cắt giảm một cách tương xứng. Kinh khủng hơn tất cả (4) là làm sao "xóa sổ" bớt đi những
"chủ nợ", hay khiến rút ngắn lại cuộc sống của họ để đỡ phải trả tiền
hàng tháng.
Đằng nào thì cũng đến "La Mã" cho cái gọi là kế hoạch ăn lương
hưu trí của người dân Mỹ nói chung và của Việt kiều nói riêng. Đưa ra điều này
quả là sẽ chẳng mang lại lạc quan tí ti ông cụ nào cho người đọc, nhưng đó là sự
thật, là những trường hợp sẽ có thể xẩy ra - ngoại trừ những chuyện bất ngờ, thần kỳ khác sẽ giúp đất nước này thoát khỏi
bài toán kinh tế hóc búa mà tôi chưa tài nào nghĩ ra. Hy vọng là những điều tôi
suy đoán về tương lai hoàn toàn sai lầm, vì đó là tương lai của những đứa con,
cháu và thế hệ tới sẽ hoàn toàn lệ thuộc vào đó.
Trở lại
chuyện trong lúc thăm dò vấn đề nhà cửa, đất đai ở Đà Lạt, tôi tình cờ được một
Việt kiều từ Mỹ về đưa đi xem những miếng đất mà ông ta làm chủ và muốn bán.
Tôi không nhớ rằng câu chuyện bắt đầu từ đâu, nhưng đại khái cũng đề cập đến
chuyện Việt-Nam và Đà Lạt sẽ là nơi lý tưởng nhất để về sống, nhất là cho những
người về hưu thích yên tĩnh. Có một điều nghịch lý là ông ta cũng vừa mới sang
Mỹ, và tiết lộ rằng chỉ cần bỏ ra vài chục ngàn USD là ông ấy sẽ có thẻ xanh
còn nhanh và rẻ hơn là bỏ ra $150 ngàn USD để đầu tư vào một dự án xây trường học
nào đó ở bên Mỹ mà tôi đã từng thấy đăng quảng cáo trên nhiều tờ báo lá cải ở
California và ngay cả ở Việt-Nam. Nghĩa là trong lúc quảng cáo, khiêu gợi những
gì tốt đẹp, tiện lợi và sẽ mang nhiều sung sướng đến cho những kẻ muốn về Việt-Nam
mua đất, xây nhà thì ông ta đồng thời lại muốn bán đất, lấy tiền càng nhanh
càng tốt để được thoát khỏi nơi này và sống ở một nơi người ta gọi là
"thiên đường hạ giới", ở tiểu bang mà mùa hè trên bãi biển thường có
nhiều cô gái tóc vàng với thân hình rực lửa, thật hấp dẫn như theo lời ông kể.
Một câu chuyện của rắn nay lại muốn thành rồng và con rồng đã mỏi mệt chỉ muốn
hạ cánh nghỉ ngơi không hơn không kém.
Nếu
ai hỏi tôi điều gì ở Đà Lạt khi xưa đã mang lại cho tôi cái ấn tượng sâu đậm nhất
thì tôi phải nói rằng đó là những giàn hoa, bụi hoa đủ loại mọc dại bên đường,
cộng thêm nếp sống từ tốn, chậm rãi , rồi những con dốc lên dốc xuống, cho đến
cả cái thi vị gọi là "trời thấp thật gần", tạo cho tôi
cái cảm tưởng con người ở đây rất gần gũi, thân cận - không như cái ồn ào náo
nhiệt ở Sàigòn, mỗi người là một hoang đảo riêng tư; thêm vào đó là cái giá lạnh
của đồi núi khiến người ta có lẽ dễ gần
lại với nhau hơn.
Hành
trình về Đà Lạt của tôi - nếu khách quan nhìn từ cao độ trên 30,000 mét - chẳng qua cũng chẳng dị biệt gì với cuộc hành
trình trong đời của bao nhiêu người khác. Cũng phải khởi đầu từ một điểm và sẽ
chấm dứt ở một điểm. Khoảng cách giữa hai điểm còn tùy vào định mệnh đưa đẩy và
sự hiểu biết, chấp nhận cái giá phải trả
của từng cá nhân, nhưng quanh đi quẩn lại cũng chỉ bấy nhiêu - cũng chỉ là
"sanh, tử, bịnh, lão". Ở Sàigòn tôi có nhiều thật, về những kỷ niệm
vui buồn của tuổi thơ, tuổi mới lớn với nhiều hoài bão trộn lẫn cả những phẫn nộ
trong xã hội thời bấy giờ, nhưng nó chưa đủ để khiến tôi thực sự trưởng thành
cho đến khi tôi lên ở Đà Lạt. Có lẽ chính vì quá lưu tâm về những kiến thức để
đời đó đã khiến tôi trở thành một kẻ rất thờ ơ - lơ tơ mơ - về chuyện tình ái, tại đầu óc lúc ấy
chỉ luôn hướng nhìn về tương lai. Cũng may là nhiều hình ảnh nên thơ của Đà Lạt,
nhất là những kỷ niệm lãng mạn mà tôi đã vô tình gây ra và lưu lại vẫn còn lẩn
quẩn trong tiềm thức để trở thành đề tài cho những vần thơ, truyện ngắn cho tôi
viết kể lại trong những ngày tha hương lưu lạc ở một quốc gia khác, nơi chốn thật
xa lạ khác.
Trên
con đường đời - hay bất cứ trong một cuộc hành trình nào - nếu có được một người
bạn để cùng đi với mình thì đó là một diễm
phúc lớn lao nhất trong đời. Thú thật là nhiều lúc tôi không hiểu chính mình đã
chọn TH. - hay TH. đã chọn tôi - định mệnh đưa đẩy để chúng tôi trở
thành hai người bạn đời, thoáng đó mà đã hơn 40 năm trôi qua. Nếu ví von đặt
cho TH. là con rùa thì tôi là con thỏ; TH. nhút nhát bao nhiêu thì
tôi đôi lúc lại bặm trợn, ba gai bấy nhiêu - nghĩa là hoàn toàn trái ngược
nhưng nhất thiết - như cái nồi với cái nắp - thứ triết thuyết Âm Dương. Trước
ngày quen tôi, TH. đi xe hơi cũng chóng mặt, đi đò thuyền cũng buồn nôn,
đi máy bay cũng dễ xây xẩm...đại khái, chính hiệu con nai vàng tiểu thư Đà Lạt;
lấy phải ông chồng có máu lãng tử, thích ngao du riết rồi bây giờ đã quen, cũng
bụi đời, sương gió như tôi. Đã bao nhiêu lần chúng tôi đi từ Châu Đốc ra tận Hà
Nội, và từ Hà Nội xuôi nam bằng đủ mọi phương tiện chuyên chở: xe buýt, máy bay,
xe đò, tầu bè, thuyền, xe lửa - chưa kể tôi từng đã lái xe gắn máy đi đường xa
liên tỉnh, hơn cả tiếng đồng hồ; hoặc chen chúc, len lỏi trên đường phố lớn ở
Sàigòn, Đà nẵng, Huế, Hà Nội...mà ai hỏi TH. có cảm thấy sợ khi ngồi phía
sau xe cho tôi lái, nàng thường cười cười trả lời : Quen rồi! mình cứ bình tĩnh mà...run, có thế thôi! :)
Còn tiền, còn sức, còn gân
sân chơi dẫu lớn cũng ngần ấy thôi
nằm đây mà ngẫm sự đời
thấy toàn là lỗ, mà lời cũng không !
thôi thì ta cứ cà nhông...
SVT 2014
Comments
Post a Comment